1. 八門分八位, 九星布九方, 青赤黃白黑, 五色卷錦裝, 交鋒對壘, 兩兩相當.

Bát môn phân bát vị, cửu tinh bố cửu phương, thanh xích huỳnh bạch hắc, ngũ sắc quyển cẩm trang, giao phong đối luỹ, lưỡng lưỡng tương đương.

Tám cửa chia tám nơi, chín sao bày chín chỗ, xanh đỏ vàng trắng đen, năm sắc bao trại gấm, giao phong đối đầu, hai bên tương đương.

 

  1. 終身不習上, 在世卻枉然, 輪回不能免, 永落深坑塹.

Chung thân bất tập thượng, tại thế khước uổng nhiên, luân hồi bất năng miễn, vĩnh lạc thâm khanh tiệm.

Suốt đời chẳng chịu làm việc cao thượng (nghiệp lành), phí uổng một đời, không thoát khỏi sự luân hồi, rơi vào hầm sâu mãi mãi.

 

  1. 兩個子女, 同到齊行, 陰陽和合, 謀作歡欣.

Lưỡng cá tử nữ, đồng đáo tề hành, âm dương hoà hợp, mưu tác hoan hân.

Hai đứa con trai gái, cùng đến đi chung, âm dương hòa hợp, tính toán vui vầy.

 

  1. 中有玄機賦, 雞鳴方顯露, 猛然悟禪關, 打破君門路.

Trung hữu huyền cơ phú, kê minh phương hiển lộ, mãnh nhiên ngộ thiền quan, đả phá quân môn lộ.

Bên trong có huyền cơ, gà gáy thấy rõ đường, bỗng nhiên gặp cửa chùa, đánh phá đường của anh.

 

  1. 數尾金魚吞餌, 絲竿釣了回頭, 家食翻嫌太貴, 五湖四海遨遊.

Sổ vĩ kim ngư thôn nhĩ, ti can điếu liễu hồi đầu, gia thực phiên hiềm thái quí, ngũ hồ tứ hải ngao du.

Đếm số cá đã ăn mồi, kéo sợi dây câu trở lại, về nhà làm món ăn rất quí, năm hồ bốn biển ngao du.

 

  1. 卯日兒出林, 午時正福臨, 卯生於寅, 方見天心.

Mão nhật nhi xuất lâm, ngọ thời chính phước lâm, mão sanh ư dần, phương kiến thiên tâm.

Trẻ ngày Mão ra rừng, giờ Ngọ là phước đến, Mão từ Dần sanh, mới thấy lòng trời.

 

  1. 日中不決, 日到方明, 一場好事, 六耳同成.

Nhật trung bất quyết, nhật đáo phương minh, nhất trường hảo sự, lục nhĩ đồng thành.

Trong ngày chưa quyết định, mặt trời đến thì rõ ràng, một bề việc tốt, sáu tai (ba người) cùng đi.

 

  1. 孤宿是妖星, 猿猴及樹精, 入山遇此曜, 迷了性和心.

Cô tú thị yêu tinh, viên hầu cập thụ tinh, nhập sơn ngộ thử diệu, mê liễu tánh hoà tâm.

Sao lẻ loi chính là yêu tinh, khỉ vượn và yêu tinh của cây, vào núi gặp điều kỳ diệu này, mê mờ giữa tâm và tánh.

 

  1. 滴漏聲催雞唱, 趲行人逐隊放, 晚渡關津, 前程無量.

Trích lậu thanh thôi kê xướng, toản hành nhân trục đội phóng, vãn độ quan tân, tiền trình vô lượng.

Tiếng mưa rơi làm cho gà gáy, giục người đi gom lại thành đoàn, buổi chiều qua bến sông cửa ải, tiền trình không lường được.

 

  1. 人在天涯外, 久乏信音來, 家人頻望眼, 草木暢胸懷.

Nhân tại thiên nhai ngoại, cửu phạp tín âm lai, gia nhân tần vọng nhãn, thảo mộc sướng hung hoài.

Người ở ngoài góc trời, đã lâu không có tin tức, người nhà nhiều lần trông ngóng, cây cỏ nằm dài nhớ kỷ niệm.

 

  1. 這顆樹下, 一穴生成, 若遷此土, 福祿駢臻.

Giá khoả thụ hạ, nhất huyệt sinh thành, nhược thiên thử thổ, phước lộc biền trăn.

Những cái cây này, một lỗ sinh ra, dời đến đất này, phước lộc ít ỏi.

 

  1. 躬耕隴畝, 形神似勞, 無拘無系, 其樂陶陶.

Cung canh lũng mẫu, hình thần tự lao, vô câu vô hệ, kỳ lạc đào đào.

Ráng cày ruộng sâu, hình dáng mệt mỏii, nếu đừng vướng mắc nhiều, niềm vui sẽ dạt dào.

 

  1. 禍來見鬼, 鬼病淹纏, 金羊得路, 身脫災殃.

Hoạ lai kiến quỉ, quỉ bệnh yêm triền, kim dương đắc lộ, thân thoát tai ương.

Họa đến thấy quỉ, bệnh quỉ triền miên, dê vàng được đường, thân thoát tai ương.

 

  1. 急起行, 急起行, 前途去, 結同盟, 只手擎天柱, 史冊好標名.

Cấp khởi hành, cấp khởi hành, tiền đồ khứ, kết đồng minh, chỉ thủ kình thiên trụ, sử sách hảo tiêu danh.

Gấp lên đường, gấp lên đường, đường trước mắt, kết đồng minh, tay đỡ trụ chống trời, sử sách nêu danh tốt.

 

  1. 深山據猛虎, 虎嘯出山窩, 揚威抖擻, 何怕人多.

Thâm sơn cứ mãnh hổ, hổ khiếu xuất sơn oa, dương uy đẩu tẩu, hà phạ nhân đa.

Mãnh hổ ở rừng sâu, hổ gầm thành hang núi, uy thế phấn chấn, nào sợ người đông.

 

  1. 三天門, 四地戶, 佈陣成, 明聚路, 軍馬齊奔, 鳴鼓進步.

Tam thiên môn, tứ địa hộ, bố trận thành, minh tụ lộ, quân mã tề bôn, minh cổ tiến bộ.

Ba cửa trời, bốn cửa đất, bày thành trận, sáng rực đường, quân và ngựa đồng hợp chạy, trống thúc tiến lên.

 

  1. 山山山, 山上建茅 , 不比人間棟宇, 卻如天上雲曇.

Sơn sơn sơn, sơn thượng kiến mâu, bất tỉ nhân gian đống vũ, khước như thiên thượng vân đàm.

Núi núi núi, trên núi thấy cỏ tranh, chẳng bì với nhà cửa to lớn của người, mà những thứ đó chỉ là mây trùm (mây bủa) trên trời thôi.

 

  1. 來去原無定處, 時來時去安身, 跋涉無慮, 榮辱不計.

Lai khứ nguyên vô định xứ, thời lai thời khứ an thân, bạt thiệp vô lự, vinh nhục bất kế.

Đi lại không nơi nhất định, giờ đi giờ đến an thân, lăn lóc không lo, vinh nhục chẳng màng.

 

  1. 有子長, 成水局, 時遇火反發福, 不必過憂煎, 人心苦不足.

Hữu tử trưởng, thành thuỷ cục, thời ngộ hoả phản phát phúc, bất tất quá ưu tiễn, nhân tâm khổ bất túc.

Có con lớn, thành thủy cục rồi thì dù gặp hỏa phản lại cũng phát phúc mà thôi, chẳng cần phải lo lắng nhiều, cái khổ con người nói sao cho hết.

 

  1. 黑夜裏, 勿前往, 一有值, 要著慌, 牢牢記, 須結黨.

Hắc dạ lí, vật tiền vãng, nhất hữu trị, yêu trước hoảng, lao lao kí, tu kết đảng.

Trong đêm tối, chớ đi tới, biết điều này, không còn sợ, nếu phải đi, cần có bạn.

 

  1. 蟄龍已出世, 頭角首生成, 雲興雨澤, 得濟蒼生.

Chập long dĩ xuất thế, đầu giác thủ sinh thành, vân hưng vũ trạch, đắc tể thương sinh.

Rồng ẩn đã xuất thế, sừng đầu trước đã thành, mây nổi mưa ao đầm, cứu sống được người.

 

  1. 火勢薰天, 天邊盡赤, 遇際水源, 庶乎成格.

Hoả thế huân thiên, thiên biên tận xích, ngộ tế thuỷ nguyên, thứ hồ thành cách.

Thế lửa hực trời, chân trời ngụt đỏ, may gặp nước nguồn, thì là có cách.

 

  1. 向南有大道, 乘馬入杭城, 不知吳人唱, 更有一知音.

Hướng nam hữu đại đạo, thừa mã nhập hàng thành, bất tri ngô nhân xướng, cánh hữu nhất tri âm.

Về phía Nam có đường lớn, cỡi ngựa vào thành Hàng Châu, chẳng biết người Ngô hát, nhưng lại có tri âm.

 

  1. 有田一畝, 盡可耕耘, 無窮收穫, 都在西成.

Hữu điền nhất mẫu, tận khả canh vân, vô cùng thu hoạch, đô tại tây thành.

Có một mẫu ruộng, hết sức cày cấy, thu hoạch được nhiều, đều ở thành Tây.

 

  1. 勿嫌兒無唇, 疾足追不及, 納入猿穴中, 走狗何處覓.

Vật hiềm nhi vô thần, tật túc truy bất cập, nạp nhập viên huyệt trung, tẩu cẩu hà xứ mịch.

Đừng ghét con thiếu môi, chân què đuổi chẳng kịp, nếu vào trong hang vượn, chó biết đâu mà tìm.

 

  1. 六牛耕地, 墾開無疆, 收成結實, 盈稟盈倉.

Lục ngưu canh địa, khẩn khai vô cương, thu thành kết thực, doanh bẩm doanh thương.

Sáu trâu cày đất, mở mang ruộng đất rất nhiều, thu được kết quả, đầy kho đầy vựa.

 

  1. 大奮沖天志, 勿苦戀家鄉, 七八君行早, 揚武在沙場.

Đại phấn xung thiên chí, vật khổ luyến gia hương, thất bát quân hành tảo, dương vũ tại sa trường.

Gắng sức hoàn thành chí lớn, đừng quá lưu luyến quê hương, bảy tám quân lên đường sớm, biểu dương sức mạnh tại sa trường.

 

  1. 葵花向日, 忠赤傾心, 大開廣廈, 樂享太平.

Quì hoa hướng nhật, trung xích khuynh tâm, đại khai quảng hạ, lạc hưởng thái bình.

Hoa quì hướng mặt trời, lòng trung đỏ cả cõi lòng, mở mang sự nghiệp rộng lớn, vui hưởng cảnh thái bình.

 

  1. 人不識仙, 那有真訣, 一入玄門, 津津有益.

Nhân bất thức tiên, na hữu chân quyết, nhất nhập huyền môn, tân tân hữu ích.

Người chẳng biết Tiên, khi có ấn quyết chân chính, một lần vào cửa huyền, bến sông nào cũng có ích.

 

  1. 勿謂說話太沈, 泥了就不成真, 悟出千般奧妙, 方識仙道最神.

Vật vị thuyết thoại thái trầm, nê liễu tựu bất thành chân, ngộ xuất thiên ban áo diệu, phương thức tiên đạo tối thần.

Đừng bảo lời nói quá thâm trầm, chỉ có bùn thì làm sao thành sự thật, hiểu được sự ảo diệu của thiên ban, mới biết rằng đạo Tiên rất “Thần Diệu”.

 

  1. 功名雖多實際, 何如修煉成真, 真身不朽, 萬載長春.

Công danh tuy đa thực tế, hà như tu luyện thành chân, chân thân bất hủ, vạn tải trường xuân.

Công danh thấy nhiều thực tế, sao bằng tu luyện thành chân, thân thật chẳng hư hoại, muôn năm vẫn trường xuân.

 

  1. 走走走, 遇一狗, 急思尋, 可長久.

Tẩu tẩu tẩu, ngộ nhất cẩu, cấp tư tầm, khả trường cửu.

Chạy chạy chạy, gặp con chó, gấp suy nghĩ tìm hiểu, có thể được trường cửu.

 

  1. 不知真消息, 消息驀地來, 月圓月缺夜, 不許把門開.

Bất tri chân tiêu tức, tiêu tức mộ địa lai, nguyệt viên nguyệt khuyết dạ, bất hứa bả môn khai.

Tin thư xác thực biết đâu là, từ chốn xa xăm mới nhận qua, xoay chuyển trăng tròn rồi lại khuyết, chưa nên hứa mở cửa.

 

  1. 火旺處要不疲, 水深處要不呆, 到頭當酌量, 毋得惹他災.

Hoả vượng xứ yếu bất bì, thuỷ thâm xứ yếu bất ngốc, đáo đầu đương chước lượng, vô đắc nhạ tha tai.

Chỗ lửa mạnh không thể lao vào, chỗ nước sâu không thể không biết, việc đến phải lo lường tính toán, mới khỏi bị thiệt hại.

 

  1. 賓雁 湖地成陸, 行建功勳早回程, 貪戀終非世人福, 莫教雞鶩會相爭.

Tân nhạn hồ địa thành lục, hành kiến công huân tảo hồi trình, tham luyến chung phi thế nhân phước, mạc giao kê vụ hội tương tranh.

Chim nhạn bay trên mặt hồ, làm xong công việc sớm trở về, nếu cứ tham luyến nó chẳng phải là phước của con người, như vậy mới tránh được sự tranh dành lẫn nhau giữa gà và vịt trời.

 

  1. 天上風, 天邊月, 月白風清, 兩兩相當.

Thiên thượng phong, thiên biên nguyệt, nguyệt bạch phong thanh, lưỡng lưỡng tương đương.

Gió trên trời, trăng ven trời, trăng thanh gió mát, hai thứ tương đương.

 

  1. 葉歸根, 長立天地, 水清源長流河海, 人得金丹長生淵涯.

Diệp qui căn, trưởng lập thiên địa, thuỷ thanh nguyên trường lưu hà hải, nhân đắc kim đan trường sinh uyên nhai.

Lá tốt là nhờ rễ ăn sâu, thông suốt lẽ trời đất, nước trong có nguồn cội dài thì chảy khắp sông hồ biển rộng, người được kim đan thì sống lâu nơi động Tiên.

 

  1. 乘馬去長安, 看花花正發, 一日雨來淋, 香色盡凋零.

Thừa mã khứ trường an, khán hoa, hoa chính phát, nhất nhật vũ lai lâm, hương sắc tận điêu linh.

Cỡi ngựa đến Trường An, xem hoa, hoa đang lúc nở, ngày kia mưa rớt xuống, hương sắc phải điêu tàn.

 

  1. 木長春天根幹老, 子實三秋枝葉凋, 不凋不謝, 不見根牢.

Mộc trưởng xuân thiên căn cán lão, tử thực tam thu chi diệp điêu, bất điêu bất tạ, bất kiến căn lao.

Cây lớn trời Xuân rễ phải già, trái mọc ba mùa cành lá héo, chẳng héo chẳng rụng, đâu biết đến sự khó nhọc của rễ cây.

 

  1. 叫道叫道, 天將明瞭, 何不伸首舒眉, 反做蓬蒿到老.

Khiếu đạo khiếu đạo, thiên tướng minh liệu, hà bất thân thủ thư mi, phản tố bồng hao đáo lão.

Kêu vang tiếng gọi, viên tướng trời liệu định công việc, sao lại co đầu rút cổ mặt mày nhăn nhó, uổng phí ngày tháng đến già.

 

  1. 藥餌真, 服了寧, 三劑後, 足分明, 神中神, 清中清, 固得緊, 可長生.

Dược nhĩ chân, phục liễu ninh, tam tễ hậu, túc phân minh, thần trung thần, thanh trung thanh, cố đắc khẩn, khả trường sanh.

Thuốc hay quí, uống liền mạnh, sau ba thang, đã rõ ràng, thần trong thần, hay trong hay, vững nhanh chân, được trường sanh.

 

  1. 三天曾結社, 四海盡知名, 長騎駿馬, 直入天庭.

Tam thiên tằng kết xã, tứ hải tận tri danh, trường kỵ tuấn mã, trực nhập thiên đình.

Ba ngày kết bạn, bốn biển đã nghe danh, cỡi bền (lâu) tuấn mã, thẳng đến thiên đình.

 

  1. 閒來夫子處, 偶然遇一人, 童顏鶴髮, 笑裡生春.

Nhàn lai Phu Tử xứ, ngẫu nhiên ngộ nhất nhân, đồng nhan hạc phát, tiếu lí sinh xuân.

Khi nhàn đến nơi Phu Tử (ý nói: đến nhà thầy), may mắn gặp một người, tóc già mà mặt trẻ, nụ cười sinh ra Xuân.

 

  1. 閑雲野鶴望東行, 惟有鄉人便是知音, 經營佈置兩三春, 聯街燈火後, 錦帆前程.

Nhàn vân dã hạc vọng đông hành, duy hữu hương nhân tiện thị tri âm, kinh doanh bố trí lưỡng tam xuân, liên nhai đăng hoả hậu, cẩm phàm tiền trình.

Mây trôi hạc nội hướng Đông bay, chỉ có người làng mới là kẻ tri âm, kinh doanh tổ chức hai ba năm, nắm bắt hết đường đi nước bước, đủ sức giương buồm gấm thẳng xông phía trước.

 

  1. 漢水無情, 蜀水澄清, 黃河滾滾, 四處煙塵.

Hán thuỷ vô tình, thục thuỷ trừng thanh, huỳnh hà cổn cổn, tứ xứ yên trần.

Nước sông Hán vô tình, nước của đất Thục rất trong, sông Hoàng chảy xiết, bốn xứ đầy khói bụi.

 

  1. 潛龍已受困, 尚不見雲興, 佇看雲四合, 飛去到天庭.

Tiềm long dĩ thụ khốn, thượng bất kiến vân hưng, trữ khan vân tứ hợp, phi khứ đáo thiên đình.

Rồng ẩn nguy nan dưới vực sâu, dễ đâu nhìn thấy đám mây cao, lâu sau mây bốn phương hợp lại, bay thẳng đến thiên đình.

 

  1. 此處滋味濃, 濃豔不耐久, 何如談笑生風, 倒好東奔西走.

Thử xứ tư vị nùng, nùng diễm bất nại cửu, hà như đàm tiếu sinh phong, đảo hảo đông bôn tây tẩu.

Xứ này có mùi vị nồng, cái đẹp sắc sảo thì không bền, sao bằng cười nói sinh gió (có ảnh hưởng mạnh), khỏi cần phải chạy Đông chạy Tây.

 

  1. 這裏有小人, 切莫稍留停, 忙打點, 好起行, 日月如逝勿久存.

Giá lí hữu tiểu nhân, thiết mạc sáo lưu đình, mang đả điểm, hảo khởi hành, nhật nguyệt như thệ vật cửu tồn.

Nơi này có tiểu nhân, đừng gắn bó lưu lại, giờ tốt đến, mau lên đường, có nhật nguyệt chứng minh vật còn tồn tại lâu dài.

 

  1. 龍生頭角, 將沛甘霖, 六七八早, 好濟蒼生.

Long sanh đầu giác, tương phái cam lâm, lục thất bát tảo, hảo tế thương sinh.

Rồng sinh sừng trên đầu, sẽ có mưa dầm lớn, sớm là sáu bảy tám ngày nữa, cứu giúp người đời.

 

  1. 太白現西南, 龍蛇相競逐, 龍自飛上天, 蛇卻被刑戮.

Thái Bạch hiện Tây Nam, long xà tương cạnh trục, long tự phi thượng thiên, xà khước bị hình lục.

Sao Thái Bạch hiện ở Tây nam, rồng rắn đánh đuổi nhau, rồng tự bay lên trời, còn rắn bị phanh thây.

 

  1. 曾把樹栽, 也要待春來, 東風嫋嫋, 開遍花街.

Tằng bả thụ tài, dã yếu đãi xuân lai, đông phong niệu niệu, khai biến hoa nhai.

Đã từng trồng cây, biết chờ mùa Xuân đến, gió đông hây hẩy, nở rộ đường hoa.

 

  1. 四十餘年苦已深, 而今汝樂度光陰, 莫籌論, 恩愛尚多歡喜事, 惜甚青春, 不減青春.

Tứ thập dư niên khổ dĩ thâm, nhi kim nhữ lạc độ quang âm, mạc trù luận, ân ái thượng đa hoan hỉ sự, tích thậm thanh xuân, bất giảm thanh xuân.

Hơn bốn mươi năm khổ đã nhiều, mà nay mới được hưởng ngày vui, đừng lo tính, nhiều năm ân ái vui chung hưởng, tiếc nuối thuở thanh xuân, đâu thể nào níu kéo lại được.

 

  1. 三冬足, 文藝精, 到頭處, 亦成冰, 急急回首, 勿誤前程.

Tam đông túc, văn nghệ tinh, đáo đầu xứ, diệc thành băng, cấp cấp hồi thủ, vật ngộ tiền trình.

Ba mùa Đông vừa đủ, nghề văn đã tinh thông, việc đến lúc sau cùng, bổng trở thành băng giá, mau hồi đầu tỉnh ngộ, đừng đi tiếp mà lầm lẫn.

 

  1. 奇怪奇怪, 前番來了, 今番又來, 謹慎提防, 勿被弄壞.

Kỳ quái kỳ quái, tiền Phiên lai liễu, kim Phiên hựu lai, cẩn thận đề phòng, vật bị lộng hoại.

Kỳ quái kỳ quái, giặc Phiên trước đến rồi, nay lại giặc Phiên đến, cẩn thận đề phòng, đừng xem thường nó mà nguy hiểm.

 

  1. 耕牛伏 , 辟土開疆, 坐看收穫, 黍稷稻梁.

Canh ngưu phục, tích thổ khai cương, toạ khan thu hoạch, thử tắc đạo lương.

Trâu cày nằm, đất vua mở ranh giới, ngồi chờ thu hoạch, lúa nếp lương thực.

 

  1. 腰下佩青萍, 步入金鑾殿, 覆護三山, 千錘百鏈.

Yêu hạ bội thanh bình, bộ nhập kim loan điện, phúc hộ tam sơn, thiên truỳ bách liên.

Lưng đeo đai “bèo xanh”, bước vào điện Kim Loan, che chở cho ba núi, ngàn cây chùy, trăm dây xích.

 

  1. 雛鳥飛高, 出谷遷喬, 龍神牙爪, 變化海島.

Sồ điểu phi cao, xuất cốc thiên kiều, long thần nha trảo, biến hoá hải đảo.

Chim non bay cao, ra khỏi hang ổ, răng móng long thần, biến hóa hải đảo.

 

  1. 吉吉吉, 尋常一樣窗前月, 凶凶凶, 有了梅花便不同, 含笑向東風, 人情不比舊時濃.

Cát cát cát, tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt, hung hung hung, hữu liễu mai hoa tiện bất đồng, hàm tiếu hướng đông phong, nhân tình bất tỉ cựu thời nồng.

Tốt tốt tốt, một dạng tầm thường, trăng trước cửa sổ, xấu xấu xấu, có những hoa mai không giống nhau, hướng về gió đông mà nở ra (như nụ cười), nhân tình ngày nay không còn nồng hậu như xưa nữa.

 

  1. 大火炎炎, 宜水相濟, 寶鼎丹成, 掀天揭地.

Đại hoả viêm viêm, nghi thuỷ tương tế, bảo đỉnh đan thành, hân thiên yết địa.

Lửa lớn hừng hực, được nước cứu chữa, giữ vẹn được cái đỉnh, báo cho trời đất biết.

 

  1. 鐵索一條, 未把孤舟系, 金刀一下, 早把頭落地.

Thiết tác nhất điều, vị bả cô châu hệ, kim đao nhất hạ, tảo bả đầu lạc địa.

Một sợi tơ sắt, có thể buộc được chiếc thuyền lẻ, một phen hạ lưỡi đao vàng, có thể làm rơi cái đầu xuống đất.

 

  1. 十二時中, 緊急煉著, 一刻少延, 無處下脚 .

Thập nhị thời trung, khẩn cấp luyện trước, nhứt khắc thiểu diên, vô xứ hạ cước.

Mười hai giờ ấy có là bao, hãy gấp dự phòng mưu chước cao, một phút dần dà e hiểm hoạ, rồi đây không lối đặt chân vào.

 

  1. 風起西南, 紅日當天, 奇門妙訣, 一掌能著.

Phong khởi Tây nam, hồng nhật đương thiên, kỳ môn diệu quyết, nhất chưởng năng trước.

Gió khởi hướng Tây nam, mặt trời hồng ở trên trời, có được “diệu quyết” của pháp “Kỳ Môn” rồi, một chưởng là có thể nắm lấy.

 

  1. 萬籟無聲際, 一月正當空, 忽被雲遮掩, 皓魄反朦朧.

Vạn lại vô thanh tế, nhất nguyệt chính đương không, hốt bị vân già yểm, hạo phách phản mông lung.

Có miệng mà chẳng mở lời được, mặt trăng đang ở trên không, bỗng bị mây che ám, khiến cho ánh sáng trở thành mờ ảo không rõ.

 

  1. 一個知音, 卻在天邊等, 切勿因循, 靜夜當思省.

Nhất cá tri âm, khước tại thiên biên đẳng, thiết vật nhân tuần, tĩnh dạ đương tư tỉnh.

Một kẻ tri âm, đã từ giã ở tận chân trời, chớ để tái phạm, đêm vắng đang mong nhớ ai.

 

  1. 眾犬相聚, 礪齒咬牙, 搖頭擺尾, 只顧看家.

Chúng khuyển tướng tụ, lệ xỉ giảo nha, dao đầu bãi vĩ, chỉ cố khan gia.

Bầy chó tụ lại, nhe răng gầm gừ, đầu múa đuôi vẫy, chỉ để giữ nhà.

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.