“Tính thái như xuân, nãi Lộc Tồn chi thịnh đức”.
Dịch nghĩa:
Thái độ như mùa xuân là thịnh đức của Lộc Tồn.
Chú giải:
Lộc Tồn chủ về người có mặt tròn dài, phần nhiều gầy ốm, dáng cô độc; nhưng đối với người khác thi miệng mồm luôn vui vẻ.
“Tình hoài tự hoả, thành phá hao chi uy quyền”.
Dịch nghĩa:
Tính tình nóng như lửa, thành kẻ uy quyền chuyên phá tán.
Chú giải:
“Phá hao” là chỉ Phá Quân, người có Phá Quân thủ mệnh, cũng chủ về người có tính tình cứng rắn, gian trá, thích mạo hiểm.
“Lộc phùng Lương ấm, bão tư tài ích vu tha nhân”.
Dịch nghĩa:
Lộc gặp Lương che chở, ôm tiền riêng giúp ích cho người khác.
Chú giải:
Thiên Lương đồng độ với Lộc Tồn, hoặc Thiên Lương Hóa Lộc, cổ nhân cho rằng hay làm chuyện ngược đời, hao tổn tiền bạc.
“Hao ngộ Tham Lang, trình dẫm tình vu tình để”
Dịch nghĩa:
Hao gặp Tham Lang, thì dâm tình sâu tới đáy giếng.
Chú giải:
“Hao” là chỉ Phá Quân. Nếu Phá Quân hội hợp với Tham Lang, cổ nhân cho rằng chủ về dâm bôn.
“Văn Khúc ám hợp Liêm Trinh, vi tham vọng chi tào lại”.
Dịch nghĩa:
Văn Khúc mà ám hợp vói Liêm Trinh, là tham vọng của viên thư lại.
Chú giải:
Liêm Trinh và Văn Khúc đồng cung, cổ nhân cho là viên thư lại ở công môn.
“Thân mệnh ti số, thực gian đạo chi kĩ nhi”.
Dịch nghĩa:
Hai cung thân và mệnh quản số mệnh, đúng là kĩ nữ gian tà.
Chú giải:
Không rõ nghĩa, nghi phú văn mất chữ。
“Tử Vi phì mãn, Thiên Phủ tinh thần, Lộc Tồn lộc chủ, dã ứng hậu trọng”.
Dịch nghĩa:
Tử Vi mập mạp, đầy đặn, Thiên Phủ thần tình, Lộc Tồn chủ về lộc, cũng ứng vững vàng.
Chú giải:
Xin xem lại chú giải ở các đoạn, trước.
“Nhật Nguyệt Khúc Tướng dữ Thiên Cơ, giai vi mĩ tuân chi tư, nãi thị thanh kì chỉ cách, thượng trường hạ đoản, mục tú mi thanh”.
Dịch nghĩa:
Thái Dương, Thái Âm, Vũ Khúc, Thiên Tướng và Thiên Cơ, đều là người xinh đẹp, tuân tú, là cách thanh cao đặc biệt, trên dài dưới ngắn, mục tú mi thanh.
Chú giải:
Cổ nhân xem trọng hình dáng vững vàng, vì vậy cho rằng “trên dài dưới ngắn” là cách cục tốt, khác với quan điểm thẫm mĩ của người hiện đại. Ngày nay người đẹp là phải “trên ngắn dưới dài”, quan điểm xưa và nay đúng là có khác nhau.
“Vũ Khúc Tham Lang, hình tiểu thanh cao nhi lượng đại”.
Dịch nghĩa:
Mệnh Vũ Khúc, Tham Lang, thân hình nhỏ, giọng nói cao mà lớn.
Chú giải:
Ở đây là nói ba tình huống: Vũ Khúc đóng ở cung mệnh, Tham Lang đóng ở cung mệnh, và Vũ Khúc, Tham Lang” đồng độ.
Thiên Đồng Đà Kị phì mãn mục miễu nhi hối manh, hình xú mạo thô.
Dịch nghĩa:
Thiên Đổng gặp Đà La, Hóa Kị, thì mặt mập, mắt chột hay mắt quáng gà, dáng thô, mặt xấu.
Chú giải:
Thiên Đồng và Đà La đổng cung, mắt chột, người mập; nếu còn gặp thêm các sao sát, kị, thì dáng thô, mặt xấu; nếu lại gặp các sao hao, sát, Kình Dương thì thân thể bị thương.
“Nhược ngộ Đà La Cự ám, tất sinh dị chí”.
Dịch nghĩa:
Nếu gặp Đà La, Cự Môn, ắt có nốt mồi lạ.
Chú giải:
“Cự ám” tức là Cự Môn. Cự Môn và Đà La đồng cung, chủ về trên người có nốt ruồi. Gọi là nốt ruồi lạ, tức là nốt ruồi có lông, hoặc nốt ruồi nhô cao lên rõ rệt.