Hình pháp:
Là hệ thống lý luận Phong thủy do trường phái Giang Tây đưa ra. Thuyết này lấy hình thế làm chính, cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, hóa thành hình mà lộ ra bên ngoài, khí vượng mà cát, ắt hình sẽ đẹp đẽ uyển chuyển; khí suy mà hung, ắt hình sẽ thô, xấu. Bởi vậy, có thể căn cứ vào hình mà biết khí, qua đó dự đoán cát hung họa phúc, tìm ra đất tốt. Theo thuyết này, lý luận âm trạch bao gồm 5 yếu tố lớn là tầm long, định huyệt, sát sa, quan thủy, lập hướng, tất cả đều xuất phát từ hoàn cảnh địa hình tự nhiên mà xác định cát hung.
Trên cơ sở đó, tổng kết thành rất nhiều dạng địa hình tự nhiên, là kết tinh vốn kinh nghiệm quí báu của Trung Quốc cổ đại trong việc nhận thức quan sát thế giới tự nhiên. Lý luận dương trạch cũng chú trọng hình dáng và sự phối hợp hình thức của nhà ở, đưa ra rất nhiều hình vẽ và cách thức cố định. Phần lớn khái niệm cơ bản và cơ sở lý luận trong thuật Phong thủy, đều do Hình pháp, đặc biệt do trường phái tiên phong Giang Tây đề xuất và định nghĩa, mà được hậu thế nhất trí thừa nhận.
Thuyết Hình pháp chú trọng lặn lội khảo sát thực địa, miêu tả giới tự nhiên chân thực và sinh động, đầy đủ sắc thái, chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, lại tương đối dễ hiểu, nên được lưu truyền rộng rãi trong xã hội, có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Trước tác tiêu biểu của thuyết này là: Táng thư, Hám long kinh, Nghi long kinh, Thập nhị trượng pháp, Thanh nang áo ngữ, Cửu tinh huyệt pháp, Ngọc xích kinh, Thôi quan thiên, Thủy long kinh, Dương trạch thập thư.
Lý pháp:
Còn gọi là Lý khí, tức là hệ thống lý luận Phong thủy do phái Phúc Kiến nêu ra. Nó lấy La bàn làm công cụ chính, chú trọng các nguyên lý thuật số như: âm dương, bát quái, can chi, ngũ hành, cửu tinh, Hà Lạc để tổng hợp và phán đoán cát hung, nhấn mạnh phương vị tọa hướng. Ví dụ thuyết Bát trạch trong lý luận dương trạch, phép Đại du niên biến hào, phép Tử bạch phi tinh, phép Tam hợp trạch, Song sơn ngũ hành, phân lớn đều lấy số mệnh của người phối hợp với bát quái, cửu tinh, can chi, ngũ hành mà có được.
Trong Âm trạch, Tam ban đại quái, Nhị thập tứ sơn, Ngũ hành thủy pháp cũng dùng các loại nguyên lý thuật số căn cứ vào phương vị sông núi mà tính toán. Dù là âm trạch hay dương trạch, hầu như không hề đề cập đến yếu tố địa hình. Phương thức và quá trình suy lý rất trừu tượng, phức tạp, rắc rối, huyền bí, đầy tính tư biện. Trước tác về lý luận gồm Bát trạch minh kính, Thanh nang hải giác kinh. Hệ thống lý luận chặt chẽ, kết quả suy lý gắn liền với mức độ tích lũy kinh nghiệm lâu dài, nhiều ít. Lý pháp thịnh hành thời Minh Thanh, nhưng vì tính trừu tượng, huyền bí nên nó không được tầng lớp dưới trong xã hội tiếp nhận.
(st)