Cung Mệnh tại Tý có Tử Vi:
Tử Vi nhập cung mệnh, mặt dài vuông vắn hay tròn trịa, vùng eo có nhiều thịt, béo vừa phải. Vẻ ngoài trung hậu, ổn trọng, khiêm cung chính trực, khí chất tôn quý, năng lực lãnh đạo tốt, quan hệ giao tiếp rộng rãi. Lời lẽ nghiêm nghị, có lễ tiết, cho người khác cảm giác có thể tin tưởng. Rất coi trọng danh lợi, khi mưu cầu theo đuổi thì thái độ tích cực nhiệt tình, nhưng một khi đạt được mục đích rồi thì bỏ qua không để ý nữa.
Sao Tử Vi tại Tý, có các sao Liêm Trinh, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng hội chiếu tạo thành cách cục Tử Phủ Vũ Tướng, tượng là bậc quân vương, hoàng đế có quần thần phò tá, là điều đại cát. Nếu lại được các sao Lộc Tồn, Thiên Mã, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tam Thai, Bát Tọa, Long Trì, Phượng Các, Ân Quang, Thiên Quý, Thai Phụ, Phong Cáo… đồng cung hoặc gia hội thì rất phú quý.
Tử Vi hóa Quyền hoặc hóa Khoa càng thêm quang huy, cực kỳ cát lợi. Hóa Quyền nhập mệnh, tất nắm quyền lớn, nhập vào cung quan lộc cũng vậy; Hóa Khoa, tất có danh tiếng, tuy có lúc chỉ là hư danh bên ngoài, hoặc hữu danh vô thực; cả hai đều chủ phú quý.
Tử Vi, Lộc Tồn đồng cung, tài vận thịnh vượng, phú quý song toàn, có năng lực quản lý kinh doanh tốt, nếu lại hội thêm cát tinh, tất đại phú đại quý, tuyệt đối không sống cuộc đời bình thường, nếu không phải quan cao chức trọng nhiều tài lộc, thì tất là bậc đại phú ông.
Tử Vi cùng Văn Khúc, Văn Xương đồng cung chủ quý, trong xã hội có danh tiếng, là người có học vấn cao, đa tài đa nghệ, phú quý, danh tiếng cũng lớn, nếu lại hội Tả Hữu, Lộc Tồn hay cát hóa (Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa) thì chủ đại phú đại quý.
Tử Vi, Tả Phụ, Hữu Bật đồng cung, chủ người hành sự có kế hoạch, hào hiệp trượng nghĩa, có tài lãnh đạo người khác, hợp trở thành ông chủ ông ty, hay quan chức nhà nước, bậc danh tiếng xã hội, hội càng nhiều cát tinh thì càng phú quý.
Tử Vi cùng Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không các hung sát tinh đồng cung hoặc gia hội, trở thành “vô đạo chi quân”, chủ người gian trá nhưng giả vờ thiện lành, trong cuộc sống tất làm việc xấu. Dù cao thấp quý tiện, đều là người tâm thuật bất chính, hay giả dối, gian trá, ngạo mạn. Nhất là Tử Vi cùng với Kình, Đà, Hỏa, Linh đồng cung càng mạnh, với Không Kiếp đồng cung tương đối nhẹ.
Tử Vi dữ Địa Kiếp, Địa Không đồng cung hay bị Địa Không, Địa Kiếp giáp chế, lại gặp Tuần Không, Triệt Không hay Hoa Cái thì tinh thần hư không hay nội tâm cô đơn, có khuynh hướng triết học, tôn giáo, thần bí học, chiêm tinh học, người này hay chú ý đến những hư danh bên ngoài.
Tử Vi đồng cung cùng Không Vong, thường không có duyên với lục thân, hôn nhân không tốt, không nhờ cậy được con cái.
Sao Tử Vi tại Tý bình hòa nên không có năng lực chế hóa hung tinh, không thể làm giảm thiểu tính hung. Tử Vi cùng với Kình, Đà đồng cung, tính tình khư khư cố chấp, thích mạo hiểm, cuộc sống nhiều thị phi, trắc trở.
Tử Vi không gặp cát tinh thì khó có ngày phú quý, nếu đồng thời cũng không gặp sát tinh, thì chỉ có hư danh. Tử Vi thấy sát diệu mà không thấy cát tinh, nếu làm công chức, các công việc phục vụ xã hội, nghệ thuật, giáo dục, mà không phải là thương nghiệp thì thành tích sẽ bị hạn chế. Tử Vi thấy cát tinh, lại thấy vài sát diệu là có khuyết điểm về phương diện tính cách, chủ về thích nghe chuyện thi phi, thích nghe tán dương cho nên dễ bị người thân tín lừa dối.
Tử Vi cư Tý, đối cung là Tham Lang, do Tham Lang là sao đào hoa, vậy là bị đào hoa vây chiếu. Vì vậy nếu có thêm Văn Xương, Văn Khúc, Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hàm Trì (Đào hoa), Thiên Diêu, Mộc Dục, thì tính đào hoa sẽ cảm nhiễm Tử Vi, mệnh tạo sẽ có khuynh hướng phong lưu hiếu sắc; nữ mệnh cũng có tính trăng hoa. Nếu có thêm Kình Dương vây chiếu tính hiếu sắc càng nặng.
Cung Huynh Đệ tại Hợi có Thiên Cơ:
Thiên Cơ lạc hãm thủ cung Huynh Đệ, an hem bất hòa, có chủ kiến riêng. Nếu hội được với Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thì nhiều anh chị em, có sự trợ giúp. Gặp Hóa Kị, Thiên Hình thì có tranh chấp, kiện tụng. Nếu gặp tứ sát, Thiên Hình, Thiên Mã , chủ về hình khắc, chia ly. Thiên Cơ lạc hãm, gặp các sao sát, kỵ thì không có an hem hoặc có hình khắc.
Cung Phu Thê tại Tuất có Thất Sát:
Thất Sát là hung tinh, lại rơi vào hãm địa là điềm không tốt, vợ chồng tính cách không hợp, hay tranh cãi, tình cảm đạm bạc, sống riêng, ly dị. Chỉ có muộn kết hôn mới có thể sống với nhau đến già. Tảo hôn nam nữ đều khắc, hội tứ sát, hôn nhân bi thảm, nam khắc tam thê, nữ khắc tam phu. Gặp thêm một trong tứ sát Kình Đà Hỏa Linh, chủ tái hôn, lại hội các ác diệu Hóa Kỵ, Thiên Hình, Không Kiếp, Đại Hao thì nam nữ đều kết hôn vài lần, cũng có khả năng phối ngẫu bị thương bệnh, tù ngục, tử vong.
Nữ mệnh Thất Sát thủ cung phu, chồng tính cách mạnh mẽ mà cố chấp, khăng khăng giữ ý mình, kết hôn muộn, dễ sống chung phi pháp, cưới người đã từng ly hôn hoặc trở thành tình nhân, vợ hai. Nam mệnh có vợ đoạt quyền chồng. Bất luận là nam hay nữ, tình đầu nhất định không có kết quả, cũng dễ gặp tiếng sét ái tình, kết hôn nhanh như chớp, hội Xương Khúc càng ứng nghiệm.
Trước khi kết hôn nhiều lần bị thất tình, trắc trở sau khi kết hôn thường phân li, hoặc thành hôn mới thấy không hợp nhau, sinh hoạt hôn nhân khô khan vô vị.
Thấy Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc hội hợp vẫn có sự xung khắc. Thấy Lộc Tồn, Hóa Lộc thì người phối ngẫu nặng lòng về chuyện sự nghiệp, không ở yên trong nhà, bản thân cảm thấy cô đơn sầu muộn. Nếu có thêm sát diệu, Hóa Kị thì chủ về li dị. Thầy Hóa Quyền hội chiếu thì người phối ngẫu có ý chí chi phối mình.
Cung Tử Tức tại Dậu có Thái Dương, Thiên Lương:
Có thể có hai con, gặp lục cát con cái học hành thành tài. Gặp lục sát đề phòng con cái tai nạn bất trắc. Thái Dương Thiên Lương đều lạc hãm, thường chủ về xa cách con cái. Nếu thành cách “Dương Lương Xương Lộc” thì con cái có người thành danh, là nhân tài học thuật, nghiên cứu chuyên nghiệp. Nếu có Khoa, Quyền, Lộc hội hợp thì nên làm việc trong chính giới, công việc giám sát là tính chất chủ yếu. Có Thiên Hình đồngc cung, nên làm việc trong ngành pháp luật. Có Thiên Nguyệt đồng cung, có thể theo ngành y dược. Nếu hội cùng tứ sát, Không Kiếp, có hình khắc, gặp Hóa Kỵ thì lắm bệnh tật, tai nạn, thường khắc con đầu. Có Kình Dương đồng cung, chủ về sinh con cần phải phẫu thuật. Nếu Thái Dương Hóa Kị, con đầu lòng lúc bé gặp tai nạn, bị một phen hú vía.
Cung Tài Bạch tại Thân có Vũ Khúc, Thiên Tướng:
Vũ Khúc Thiên Tướng ở cung Thân miếu vượng, chủ phú, tài vận phong mãn, gặp Khoa Quyền Lộc Mã thì đại phú. Nếu hội sát tinh thì nhờ kĩ nghệ mà phát tài.
Vũ Khúc là sao cai quản cung Tài Bạch, nhập miếu thù cung Tài Bạch thì chủ về tiền của dồi dào, có tiền một cách thuận lợi, nguồn tiền tài dồi dào.
Vũ Tướng được “Lộc Mã giao trì” là tốt nhất, chủ về rời xa quê hương lập nghiệp, trở nên giàu có. Đồng cung với Hóa Lộc chủ đại phú, đồng cung với Tả Hữu cũng giàu, đồng cung với Xương Khúc thì chủ danh tiếng, tiền bạc đều tốt, nhưng nếu Văn Xương Văn Khúc hóa Kị thì thường vì trượng nghĩa mà bị liên lụy hoặc bị lừa gạt.
Kị nhất gặp Không Vong, đồng cung với tứ sát Không Kiếp, kiếm tiền một cách gian khổ, tiền tài ắt có lần phá sản lớn, nếu nhanh chóng kiếm được tiền thì ắt vì tiền mà sinh họa, hay vì tiền mà phân tranh, mà tiền đó cũng không thể lưu giữ lâu được. Đồng cung với Kình Dương chủ về có tranh chấp tiền bạc, đồng cung với Đà La chủ về việc kiếm được tiền hay bị dây dưa, lần lữa. Đồng cung với Hỏa Linh thì khó tích tụ tiền của. Đồng cung với Không Kiếp thì bên trong trống rỗng.
Vũ Khúc Thiên Tướng tại Thân, đối cung là Phá Quân hãm địa, nên cũng chủ về tiền đến rồi đi, trồi sụt thất thường, nhưng cuối cùng cũng có thể tích lũy, nếu có thêm các sao hao, sát hội chiếu thì không có hy vọng tích lũy được tiền của.
Cung Tật Ách tại Mùi có Thiên Đồng, Cự Môn:
Thiên Đồng, Cự Môn hãm địa đồng cung chủ về bệnh phổi, khí quản, thực quản, đau thần kinh. Nếu có các sao sát, kỵ, hình, hao tụ tập, có thể phát triển thành các bệnh về xương tủy hoặc bệnh tăng bạch cầu. Trong tình huống Thiên Đồng, Cự Môn gặp phải sát tinh hoặc đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp đều chủ về bệnh về xương khớp, thoái hóa, hoặc tăng sinh, dẫn đến chèn ép các dây thần kinh, làm đau nhức. Có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ thì càng nặng. Thêm các sao Thiên Hình, Thiên Nguyệt đồng cung thì có thể là bệnh tật suốt đời, như bệnh về xương tủy bẩm sinh. Thiên Đồng Hóa Kị chủ về bệnh bang quang, hệ bài tiết. Cự Môn Hóa Kị chủ về bệnh ở tì, vị.
Cung Thiên Di tại Ngọ có Tham Lang:
Tham Lang ở cung Thiên Di chủ về ở bên ngoài hay tiếp đãi khách khứa, tiệc tùng. Tham Lang Hóa Lộc hay Hóa Quyền thì thù tạc vui vẻ, kết giao rộng, được bạn bè tôn trọng. Nhưng nếu Tham Lang Hóa Kị thì thù tạc vô vị mà dẫn đến phiền phức, tranh chấp, dù có các sao cát tinh hội hợp thì cũng chủ về quan hệ nhiều mà không có thu hoạch, lao tâm phí sức.
Tham Lang đồng cung với Hỏa Tinh, Linh Tinh, chủ về ở nơi xa náo nhiệt, nhưng phần nhiều chỉ giao du ngoài mặt, mà khó có bạn tri âm. Có các sao Lộc đến hội chủ về nhờ thù tạc mà kiếm được tiền. Tham Lang đồng cung với Hỏa Tinh, Linh Tinh nếu gặp sát tinh hoặc Hóa Kị hoặc sát kị cùng hội tụ thì càng tệ, sẽ chủ về ở nơi xa bề ngoài thì vẻ vang mà lợi ích thực tế bị người ta đoạt mất.
Tham Lang Hóa Lộc hay Hóa Quyền, dù không có Hỏa Tinh, Linh Tinh cũng chủ về đi xa đến đất khác tương lai tươi sáng, phát đạt. Gặp Hỏa Linh càng chủ về phát đột ngột, nhưng nếu đồng thời lại gặp các sao sát, kị thì sau khi phát đột ngột sẽ suy sụp nhanh chóng.
Tham Lang đồng cung với Kình Dương, Đà La chủ về di xa gặp nhiều thị phi, mà thường do thù tạc, vui chơi gây ra, nếu gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp thì bị trộm cướp. Gặp các sao đào hoa hội hợp sẽ chủ về vì sắc mà gây ra họa, gặp thêm Hóa Kị thì tình hình càng nghiêm trọng.
Tham lang ở cung Thiên Di gặp các sao văn tinh hội hợp thì phần nhiều là thi tửu, xướng họa; gặp sao đào hoa thì phần nhiều là tửu sắc, gặp Không Vong, Hoa Cái thì hay kết giao với bạn bè trong tôn giáo.
Cung Nô Bộc tại Tị có Thái Âm:
Nhân viên, người dưới quyền phần nhiều là nữ giới, không gặp sát tinh thì quan hệ đôi bên tốt đẹp, giúp ích được cho bản thân. Nếu hội Không Kiếp, Đại Hao, vì họ mà hao phá tiền tài. Hội Kình Đà, lấy oán báo ân, hội Hỏa Linh, bị phản bội, dễ bị liên lụy, thiệt hại. Thái Âm thấy cát diệu hội hợp hoặc hóa cát thì được trợ lực lớn.
Cung Quan Lộc tại Thìn có Liêm Trinh, Thiên Phủ:
Liêm Trinh, Thiên Phủ miếu vượng đồng cung, có năng lực quản lí ưu tú, tuổi trẻ sự nghiệp không ổn định, đến tuổi trung niên thì phát triển, có thể thu được thành công ngoài mong đợi. Được nhiều cát tinh hội tụ thì văn võ phú quý. Liêm Trinh Hóa Lộc, võ chức quý hiển, kinh doanh đại phát. Phụ Bật Xương Khúc hội chiếu, thì làm chính trị, có thể thành quan lớn.
Liêm Trinh là sao chủ về quan lộc, nhập cung quan lộc là đắc vị sẽ có cơ hội nắm quyền hành. Nếu không gặp sát tinh, thì là người coi trọng hiệu quả công việc, có thể phát huy năng lực trác việt, hợp với công việc quản lý.
Nếu gặp Kình, Đà, Không, Kiếp thì sự nghiệp không thuận lợi, thị phi không ngớt, làm chuyện gì cũng khó thành. Gặp đủ tứ sát Kiếp Không thì không đẹp, sự nghiệp nhiều trở ngại thăng trầm và hay tranh chấp, nếu Mệnh Tài Quan hội chiếu nhiều sát tinh thì không có nghề nghiệp địa vị gì đáng nói, cũng chỉ thuộc hạng người bình thường. Liêm Trinh Hóa Kỵ và tứ sát, Thiên Hình đồng cung cư cung quan lộc thì có họa ngục tù, bức hại chính trị.
Cung Điền Trạch tại Mão Vô Chính Diệu:
Cung Điền Trạch không có chính tinh, được các sao Thái Dương, Thiên Lương hãm địa ở cung Dậu xung chiếu, Thiên Đồng, Cự Môn ở cung Mùi và Thiên Cơ ở Hợi hợp chiếu. Được nhiều cát tinh hội tụ nhưng đều lạc hãm, cũng là các sao không chủ quản về điền tài, cho nên việc gây dựng điền sản không dễ dàng, chậm muộn, thường hay thay đổi chỗ ở và nơi làm việc. Được các cát tinh, Hóa Lộc, Lộc Tồn thì tuổi trung niên gây dựng được nhiều nhà cửa, đất đai. Gặp lục sát, song Hao thì bất lợi về điền sản, không có nhiều đất đai, nhà cửa, dễ có sự tranh chấp về tài sản. Dù có gặp được cát tinh cũng không nên kinh doanh bất động sản vì hay gặp tổn thất, gặp các sao hao sát thì càng không nên.
Cung Phúc Đức tại Dần có Phá Quân:
Phá Quân hãm địa thì phúc bạc, ngoài hào nhoáng trong hư sầu, hay ưu phiền, ít niềm vui, làm chuyện gì cũng hay hối hận, không vừa lòng, đời sống tinh thần không an định.
Hội tứ sát thì gian khổ, phiền muộn bất an, làm nhiều mà thành công ít, tuổi thọ bị giảm. Hội Hóa Kỵ thì hay ưu tư, chuyện gì cũng không quyết đoán. Thêm Không Kiếp thì hay ảo tưởng lãng mạn mà ít thực tế.
Thấy Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền thì vất vả mà thành công, nếu thêm Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt thì càng tốt. Thấy các sát diệu, Hóa Kị thì chủ về người ta chèn ép, sát nặng thì gặp tai họa.
Cung Phụ Mẫu tại Sửu, Vô chính diệu:
Cung Phụ Mẫu không có chủ tinh, Cự Môn, Thiên Đồng xung chiếu, Thái Dương Thiên Lương tại Dậu và Thái Âm tại Tị hợp chiếu. Cung Phụ Mẫu được nhiều cát tinh hội chiếu, nên tình cảm giữa bản thân và cha mẹ khá tốt đẹp. Gặp lục cát thì được cha mẹ nâng đỡ, về già có thể phụng dưỡng, báo đáp được cho cha mẹ. Gặp lục sát ít duyên với cha mẹ, phải xa nhà lập nghiệp.