Trong Tử Vi Đẩu Số, Hóa Kị ngũ hành thuộc Nhâm Thủy, là thần chủ hung, có tác dụng cuối rối, phá hoại. Tượng ý là thị phi, rắc rối, phiền phức, lo chuyện bao đồng, hay xía vào chuyện của người khác, sóng gió trắc trở, ngăn cản, thất bại, không được như ý, bị đả kích, bị tổn thất, đố kị, ganh ghét, dính lại với nhau, điều không may, phá hoại, mắc nợ, không có duyên, tự ti.
Hóa Kị nhập cung Mệnh (Thân) hoặc cung Thiên Di, rất hung, chủ về cả đời gập ghềnh, không thuận lợi, công việc thường hay trồi sụt, dễ bị người ta đố kị, ganh ghét, lật đổ, gặp tiểu nhân, thường dẫn tới thất bại, không được như ý, thất tình, thất nghiệp, hao phá tiền bạc, gây thù chuốc oán, đấu tranh, bệnh tật, tổn thương, tai bay vạ gió, “quan phi”, điều không may, nhưng người này không nhất định là bất tài; bất lợi đối với văn nhân và người buôn bán kỹ nghệ; nhưng đối với người theo chức nghiệp võ, tuy có thị phi và dễ gặp điều không may cũng không luận đại hung. Hành hạn mà gặp nó cũng luận như vậy. Không có sao cát hóa giải, tất cả là điều không may.
Kị gặp tứ sát tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Thương, Thiên Sứ đồng cung hoặc xung chiếu, là chủ về vất vả, gian lao, dễ gặp điều không may, bệnh tật trùng trùng, tai họa lao ngục, thương tật tàn phế, hoặc chết hung.
Kị gặp Thiên Hình đồng cung thủ mệnh, là đại hung, chết ngoài đường hoạc kiện tụng tù tội; thêm tứ sát tinh càng ứng nghiệm vận hạn gặp chúng là có họa máu đổ. Kị ở chung với Sát Phá Liêm Tham Cự Vũ Cơ, tam phương gặp một trong tứ sát tinh, cả đời gặp nhiều điều không may, chăng phải bệnh tật đeo bám thì cũng kiện tụng. Nếu cát hung lẫn lộn thì công việc trồi sụt bất ổn, phát đột ngột thì chóng tàn.
Nhưng Hóa Kị không nhất định lúc nào cũng hung, mà cần phải xem sao hóa là sao nào? Rơi vào cung nào? Ở đất miếu vượng hay thất hãm? Nếu sao hóa miếu vượng, có thuyết Kị ở vượng địa thì không “kị”, gặp điều không may cũng nhẹ, tuy có trở ngại nhưng cuối cùng vẫn thành công. Sao thuộc Kim Thủy Hóa Kị ở đất miếu vượng, càng không “kị”, vẫn giàu sang kiêm phú quý, như Thái Âm Hóa Kị ở Dậu, Tuất, Hợi, Tí; Vũ Khúc Hóa Kị ở cung Tị là đất trường sinh vv… Sao Mộc Hỏa Hóa Kị ở đất miếu vượng, như Thái Dương Hóa Kị ở Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Thiên Cơ Hóa Kị ở Mão, vẫn luận có phúc, nhưng phần nhiều đều phú mà không quý hoặc chỉ quý mà không phú. Người thuộc thủy nhị cục và người mạng Thủy gặp Hóa Kị, dù không thích cũng vẫn không “kị”, nhưng không kị không có nghĩa hoàn toàn không bị ảnh hưởng xấu, như người sinh ngày mão, tháng hợi cung Mệnh có sao Hóa Kị càng làm cho người ta lóa mắt, càng có thể trở nên giàu sang phú quý, nhưng bất lợi với cha mẹ. Hóa Kị được Thiên Khôi, Thiên Việt giáp, hoặc tọa quý hướng quý, cũng cát. Hóa Kị ở hai cung Tí, Sửu không hung, nhưng cần phải nỗ lực làm việc để xung phá trở lực. Sao Hóa Kị thủ cung Mệnh ở Dậu, được Thái Dương ở Tị, Thái Âm ở Sửu vây chiếu, là hóa kị mà không kị, vẫn chủ về có phúc. Thiên Đồng Hóa Kị ở cung Tuất, người sinh năm Đinh lại cát. Cự Môn Hóa Kị ở cung Thìn, người sinh năm Tân vẫn cát. Liêm Trinh hóa Kị ở cung Hợi, là Hỏa nhập cung Thủy, lại gặp người mạng Thủy, Hóa Kị cũng không hại gì. Các sao thuộc tinh thần Hóa Kị ở cung Mệnh, đầu óc lại được bình tĩnh. Các cung tam phương tứ chính của mệnh thân đều được nhiều sao cát tọa hay hội chiếu, dù mệnh thân có sao Hóa Kị cũng không thể xấu, gặp điều không may cũng nhẹ thôi.
Sao thuộc Thổ không hóa Kị, nhưng sao Hóa Kị sợ nhập đất tứ mộ, là tăng hung. Lúc chính tinh Hóa Kị thất hãm ắt sẽ có điều không may, nếu đồng cung với Sát Phá Liêm Tham hoặc lục sát tinh, là cực kỳ xấu, chủ về người thì chia lìa, tiền thì tứ tán, biếm quan giáng chức, bệnh tật, đại tang, thậm chí tai nạn bất chắc, thương tật chết yểu (Nam mệnh Tham Lang Hóa Kị, không có sát tinh có thể khiến mệnh chủ giảm bớt đam mê những sở thích xấu, và chuyển hướng đam mê sang làm việc và vận động, nếu thêm các sao sát hung thì khó tránh khỏi điều không may). Nhật Nguyệt thủ cung Mệnh lạc hãm hoặc đồng cung ở Sửu, Mùi, gặp Hóa Kị, tam phương lại ít sao cát, cũng chủ về đại hung. Liêm Trinh Hóa Kị ở Tị, Hợi là hãm địa, đại hung, nếu tọa cung Quan Lộc là gặp điều không may tù tội.
Kị sinh cung là cung không yên, Kị khắc cung là có điều không may đến; cung sinh Kị là điều không may xảy ra từ bên trong, Kị sinh cung là điều không may đến từ bên ngoài, cung khắc Kị là có thể hạn chế điều không may; Kị gặp Không là hung không xảy ra được.
Kị ở đối cung xung chiếu là hung nhất; nếu bản cung có cát tinh thì xung động nhưng vô sự; nếu bản cung có sao ác sát, thì sao ác sát bị sao Hóa Kị kích động mà bùng nổ, xảy ra điều không may; nếu đối cung còn có thêm sao ác sát, thì càng hung. Kị ở tam phương không có trở ngại gì lớn, chỉ phòng tiểu nhân đố kị, ganh ghét mà thôi.
Nữ mệnh gặp Kị, bất luận vượng hay nhược, dễ bị lời qua tiếng lại thị phi. Ở vượng địa cũng có thể dư giả, nhưng không được quý, vãn niên còn hay bị bệnh. Không có cát tinh, ở hãm địa, thêm sát tinh, là nhiều thị phi, bất hòa với người thân, nghèo khổ. Gặp thêm hung tinh, phàm việc gì cũng khó toại ý, sống gian khổ qua ngày. Người Thủy nhị cục gặp Kị, xảy ra điều không may cũng nhẹ.
Đại vận gặp sao Hóa Kị, mười năm vất vả; lưu niên gặp nó, một năm bất lợi; đại vận thứ hai gặp nó cùng Thái Tuế, sự nghiệp lao đao, văn nghiệp không bền, thương gia hay kỹ nghệ gia đều bất lợi, nhưng người theo nghiệp võ tuy gặp một số điều không may thị phi, những cũng không có hại gì lớn (nên xem phối hợp tình hình chính tinh miếu vượng cát hung thế nào).