Thìn Tuất xưa nay được coi là căn cứ địa của Thiên La, Địa võng. Mệnh Thân nào bị đặt ở 2 cung này dẫu là mãnh hổ cũng chỉ là cọp giấy ngồi trong cũi, phượng hoàng tốt mấy cũng chỉ là phượng hoàng rơm nằm trong lưới.
Hai chữ La võng có nghiã là lưới, ở đây lại là lưới của Trời đất dầu là gì đi nữa, đã vướng trong lưới khó lòng vùng vẫy.
Ấy thế mà một số danh nhân kim cổ Mệnh Thân đã tung hoành ngay 2 nơi đất chết này, thì đâu là nguyên lý của La Võng.
Thiên mã tại cung Hợi, truyền thống vẫn cho là ngựa vô dụng, mã cùng đường hết lối chạy. La võng này có thể cũng bị lầm nhận định là nơi đồng khô cỏ cháy vô phương cho nhân thế sinh hoạt. Lại còn có thuyết một khi Mệnh hay Thân ở La Võng thì phải có Hình Kình cắt lưới toang ra mới có phương kế thành công được. Thật là muôn hình vạn trạng cho người tìm học.
Bốn mộ cung Thìn Tuất Sửu Mùi là nơi xuất phát và cũng là nơi tập trung của ngũ hành. Thìn Tuất là dương, Sưu Mùi là âm. Tại sao Thìn Tuất đều là dương lại gọi là Thiên La Địa võng. Thìn là Thiên la là trúng, còn Tuất là Địa võng có vẻ trái lý.
Trên mặt địa bàn từ Dần đến Thân thuộc về phạm vi của Thái dương, từ Thân đến Dần thuộc Thái âm thế lưỡng nghi của Thái cực. Hai cung Thìn Tuất là 2 cung xuất phát, 2 cung Sửu Mùi là 2 cung tập trung. Thuộc về dương là Thiên, thuộc về âm là Địa.
Đà la là cái lưới giăng ra để vây bọc lại. Đà la ở Thìn là Thiên La, ở Tuất là Địa võng, Vậy 2 cung Thìn Tuất được gọi là La võng chi địa chỉ khi nào có Đà la hoành hành. Còn ngoài ra cũng chỉ là những vị trí để cho ai hợp tình hợp cảnh tung mây lướt gió phỉ chí tang bồng.
Trong 14 chính tinh phái dương của thế lưỡng nghi là Tử Phủ, Sát Phá Tham là bộ sao uy nghi thực hành tranh đấu quyết liệt phải né tránh ngại ngùng nơi la võng. Cơ Nguyệt Đồng Lương mềm dẻo ôn nhu không đến nỗi nào bị thao túng.
Việc cần thiết khi lập lá số phải thận trọng 2 chữ Tiền và Hậu lúc an Lộc tồn, luôn luôn tiền Kình hậu Đà ví như tuổi Giáp dương nam Lộc tồn ở Dần, Kình ở Mão, Đà ở Sửu, với người dương nữ Kình phải ở Sửu, Đà đổi lại ở Mão để khỏi lầm trường hợp có bị La võng hay không, cứ căn cứ Mệnh hay Thân ở Thìn Tuất là ở thế bó tay bất động là một điều không biết sao mà nói.
Vương Mãng, một nhân vật chính trị Trung hoa về cuối đời tiền Hán, có đến 2 lá số làm xáo trộn dư âm đâu là chính nghĩa. Mệnh đều nằm ở Thìn, chỗ mà xưa nay vẫn yên chí là cung Thiên la
1) Giáp Thân ngày 9 tháng 3 giờ Tí
2) Giáp Dần ngày 27 tháng 1 giờ Tuất
Hai số này đã nêu cao phân biệt đâu là chánh nhân siêu việt, đâu là nghịch thần phản tặc. Thìn cung ở đây hoàn toàn không phải là căn cứ Thiên La vì tuổi Giáp Đà la ở xa tại cung Sửu nên Vương Mãng bằng cả 2 lá số hoặc Tử Tướng tuổi Giáp Thân hay Phá Quân tuổi Giáp Dần đều thành công theo ý muốn, mỗi số một cách đặc biệt khác nhau. Căn cứ theo nhân phẩm lịch sử đã ghi, Hán Quang Võ sau khi bình định đất nước, nhà vua đặc phái các nhà bồi bút rất giỏi về lý học nặn ra lá số Giáp Dần, phác hoạ hình bóng một bất lương đủ tư cách làm việc phản nghịch. Sau này người người đều cho chân tướng chính xác của Vương Mãng là số Giáp Thân một nhân vật quả quyết với bất cứ giá nào đem lại bộ mặt mới cho Tổ Quốc, xã hội đã bị lũng đoạn sâu mọt đục khoét lâu ngày. Ông đã thành công, nhưng vì Quan bị triệt nên không được trường tồn.
Sự việc khẳng đinh Thiên la Địa võng không phải nhất quyết là 2 cung Thìn Tuất mà phải là trường hợp có Đà la ở 2 cung đó.
Cách diễn tả Thiên la chỉ có 3 tuổi ất Bính Mậu. Riêng Bính không thành việc vì Triệt phá nát Đà la. Mậu Tuất có Tuần giảm sức Đà la không đủ sức khép chặt. Tất cả tuổi Ất âm nam kể như phải hứng chịu mọi sự gò bó của Thiên La, mặc dầu tuổi Ất Mùi có Tuần, nhưng vì Thìn là dương cung nên sức của Tuần không đủ ngăn cản uy lực của Đà la, có chăng chỉ là 30 % không đáng kể.
Địa võng uy hiếp 2 tuổi Tân và Nhâm. Tất cả âm nữ tuổi Tân cũng riêng Tân Mùi được Tuần nới lại 30 % sức hãm Đà la, còn ngoài ra đành cam phận định mệnh của kiếp số.Tất cả tuổi Nhâm đều bị Địa võng gói chặt trừ 1 Nhâm Thân được mở rộng tới 70%.
Tai hại nhất là tuổi Nhâm Tuất Mệnh Thân đồng cung kể như sinh bất phùng thời. Người này nên đóng vai trò Trương Lương là thượng cách. Nhưng Nhâm Tuất được thân cư phúc, ngược lại là người thành công phi thường vượt mức khi đến tuổi 45 là thời gian Triệt phá nát Đà la ở mệnh, tháo gỡ Tuần ở Thân, lại là cung đắc thiên thời (Quan phù).
Tóm lại Thiên la địa võng là Đà la, Đà la đắc địa ở tứ sinh mà hãm dịa ở tứ mộ. Hai cung Thìn Tuất là nơi phát xuất tất cả cái gì bạo ác của Đà la, không như 2 cung Sửu Mùi là nơi tập trung gò bó lại, tuy rằng vẫn là đất thao túng múa gậy trong vườn hoang, nhưng không bằng Thìn Tuất.
Mười tuổi hàng Can, 5 tuổi Giáp Đinh Kỷ Canh Quí không tơ hào liên luỵ La Võng, còn lại Ất Bính Mậu phải để ý Thiên La, Tân Nhâm nên thận trọng ở Địa võng.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)