Trên trăm tinh đẩu trong tử vi lý học có 4 sao cô đơn mà độc đáo. Không như chính tinh đứng trong tam hợp xếp thành bộ Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cự Nhật và cũng không phối hợp với một bạn đời ở thế âm dương nên đôi lứa như Tả Hữu, Xương Khúc, Quang Quí … được gọi là trung tinh, hay gây bất trắc bất ổn như Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hoả với huy hiệu là lục sát tinh, hoặc ác nghiệp của lưu Hà, Kiếp Sát.
Họ chỉ đơn thương độc mã tung hoành trên địa bàn rất lợi hại có thể làm lệch đòn cân thăng bằng nếu sự nhận xét thiếu kỹ càng chu đáo:
Thiên không – Thiên mã – Phá toái – Đẩu quân
a) Đã có dư luận là Thiên không không phải là cô đơn lẻ bóng, vẫn có bạn đời là Địa kiếp tức cũng bộ đôi như ai kia trong luật âm dương. Sự việc đương trong vòng điều tra tư pháp lý lịch đã có hôn thú chưa để phân hắc bạch. Theo thuyết sống cô đơn thì Thiên không có một vị trí nhất định liền sau Thái Tuế, giữ trách nhiêm canh phòng không cho ai vượt hưởng đắc ý trên mức tối đa Thái tuế, nếu không lấy ĐỨC làm khuôn vàng thước ngọc thì sẽ chỉ là con số bạch đinh to lớn (Thiên không thường xuyên có tứ đức tam hợp và xung chiếu).
Theo thuyết này gán cho Thiên không là bộ ba vua bếp có lẽ trúng hơn vì luôn có Hồng Loan, Đào Hoa trong bước đường đời rất bình đẳng, phân chia quyền hành rõ rệt. Khi nào Thiên Không đến với Đào Hoa nơi biệt thự Tứ chính (Tí Ngọ Mão Dậu). Đào hoa lắm tham vọng sinh ra lắm mưu nhiều mẹo quỷ quyệt rồi ra cũng nước lã ra sông. Lúc ở với Hồng Loan dưới mái am cỏ Tứ sinh (Dần Thân Tỵ Hợi ) là nơi thánh thất đầy ý nghĩa vị tha. Còn ra về ở tư gia tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) lộ rõ chân tướng cay nghiệt, nếu ai yếu bóng vía chỉ còn nước đào hố xuống đất mà ở.
b) Thiên mã là sao hào hiệp, hình bóng một Tống Giang, một đơn Hùng Tín, dem lại nghị lực khả nằng giúp đời nơi đua trường tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) chỉ phù suy không tơ hào đến người thịnh. Chỉ có Mệnh ở vị trí Tuế Phá, Tang môn, Điếu khách mới thấy xuất hiện Thiên mã để đương số chiếu đầu sống còn.
Nói tới kết quả thành công tới mức độ nào, còn tuỳ theo phong thổ nơi mã được chăn nuôi với chủ nhân hợp tình đồng cảnh mặc dầu hành chính cống của Mã là Hoả , nhưng một khi đã nhập tịch ở địa phương nào thì là công dân ở nơi đó phải hoà hợp dân chúng nơi cư ngụ mới đắc cách. Như Mã ở Dần là thanh mã, rộng bề sinh sống, phải gặp chủ nhân Mộc mệnh; ở Tỵ là Xích thố mã phải gặp chủ nhân Hoả mệnh, ở Thân là bạch mã phải gặp chủ nhân Kim mệnh, ở hợi là ô mã đắc cách là gặp chủ nhân thuỷ mệnh. Trên bước đường đời thầy trò sẽ thấy mọi sự dễ dàng tranh tài đoạt giải cùng vận hội thuận lợi hay không! Còn sự thua thiệt do mã mang đến phân độ nào cũng tuỳ trường hợp sinh khắc của chủ với mã, đừng tưởng cứ mã gặp tràng sinh là thanh vân đắc lộ và cũng đừng cho mã ở Hợi là mã cùng đường vô dụng.
c) Một cái tên Phá là đập tan, Toái là vụn nát đủ nghĩa tính cách của tác dụng huỷ hoại không xây dựng. Hành động này nếu gặp bậc hiền lương (Đồng Lương) hay phúc hậu (Tử phủ) hẳn là các chủ nhân này chỉ có lắc đầu chép miệng mà khoanh tay bó gối than dài chịu sự bất lực. Trường hợp gặp phải vai u thịt bắp (Sát Phá Tham) hẳn cũng có giảm mức độ mạnh bạo hung hãn như đụng độ Tham Vũ giảm lòng tham vọng, Tử Sát giảm bớt khí hiên ngang, bằng như Liêm Phá tức là thầy trò tương hợp (Phá quân gặp Phá toái) sự điêu linh tan vỡ không biết lấy gì mà đo lường).
Phá toái là Hoả đới Kim và rất hạn chế chỗ đứng (chỉ có Tỵ Dậu Sửu) nên đủ quyền hành múa gậy vườn hoang nơi vượng địa thi thố khả năng với hầu gần hết các bộ chính tinh trong hoàn cảnh bị hãm hoặc không đủ sắc thái thật sự chân tướng của mình. Riêng Phá Quân ở 3 nơi này (Vũ Phá ở Tỵ, Liêm Phá ở Dậu, Tử Phá ở Sửu) là tay giang hồ kiêu dũng. Trường hợp trùng phùng Phá Toái, hỏi rằng chúng còn biết trên đầu có ai. Phá Toái chỉ đóng ở Tỵ Dậu Sửu có đầy ý nghĩa thăng bằng của luật xung khắc đối với Hợi Mão Mùi là vị trí bị thua sút, cũng như Thân Tí Thìn dễ dàng đàn áp Dần Ngọ Tuất phải chịu kém thiệt về chánh nghĩa âm dương.
d) Đã khoác cái tiếng “Quân” vào cho một danh hiệu, hẳn là có ý muốn đề cao một tước vị khá quan trọng như Tướng Quân, Sứ Quân hay tôn trọng phẩm giá một cá nhân như Trần Quân, Nguyễn Quân ở trong còn ngầm ngụ ý quân tử bất khuất. Đẩu quân là một mãnh tướng được giao phó cầm cân nẩy mực đo lường (Đẩu ngoài ý nghĩa là sao còn có nghĩa là một cái đấu đong thóc gạo cũng như cái lít bây giờ), hạnh phúc một số phận, giống như vị tướng trông coi quân nhu lương thực cho bộ đội, nói rộng lên là một Thủ trưởng hay Tổng Giám đốc lo toan ngân sách một quốc gia. Quân bình được ngân sách thì nước thịnh dân giàu. Nặng về thâu thì dân nghèo khổ, nặng về chi thì Quốc gia phá sản; vậy quyền hạn của vị Thủ trưởng đó là đặc biệt và rộng rãi làm sao vén khéo được tài chính ổn định được đời sống nhân dân.
Biết rằng khi an vị cho Đẩu quân trong số phải lấy Thái Tuế làm đích tính nghịch theo tháng, thuận theo giờ, có nghĩa là Đẩu quân phụ thuộc vào Thái tuế, phải có trách vụ gì khá quan trọng như Thái Tuế đã vạch rõ từ tư cách cá nhân đến vận hành thiên thời, một yếu tố ưu tiên trong 3 điều kiện: thiên thời, nhân hoà và địa lợi.
Xưa nay chỉ nói đến Đẩu quân là sao bảo thủ, chắt chiu tằn tiện, đóng cung tử thì hiếm con, ở cung điền tài thì giữ gìn điền sản là tư cách của người nội trợ thu vén cho một gia đình, cũng như trong một Quốc gia vai trò tài chánh ngân sách lo thâu chi quân bình hàng năm. Đẩu quân là cận phụ tá Thái Tuế nên mới có danh hiệu là Nguyệt tướng thi hành tiểu vận. Thái Tuế đúng nghĩa là năm phồn thịnh mà chỉ huy đại vận 10 năm. Đẩu quân là nguyệt tướng tất nhiên cầm đầu 1 năm nào đó trong đại vận.
Tiểu vận nằm trong đại vận 10 năm.. Nếu đại vận bị khắc nhập hay sinh xuất chỉ là miếng xương hóc nuốt khó vào mà nhả ra cũng vướng, thêm Quyền Lộc càng thêm lúng túng khổ về quyền lộc. Đẩu quân bị Tuần Triệt khác gì tướng bại là cả một bất hạnh. Nhưng có sa cơ, tiết tháo vẫn không mất, tiếng dội khi da ngựa bọc thây.
Trong 12 cung số, cung nào đắc Đẩu quân phải có một khía cạnh nổi bật. Trường hợp bị lục sát tinh bổ vây, chỉ là mãnh hổ bất lực trước quần hồ, bị Tuần Triệt phải truân chuyên lao đao mà được tiếng.
Số nào Mệnh Thân đồng cung tam hợp Thái Tuế được thêm Đẩu quân dầu ở hoàn cảnh nào, nhất định không phải là thường nhân ti tiện. Ít ra cũng đủ bổn phận có danh gì với núi sông. Hận cho ai nơi vị trí Tuế phá mà đắc Đẩu quân, một phường Từ Hải, Hoàng Sào, nếu Mệnh Thân đồng cung thì nghênh ngang một cõi biên thuỳ, khó ai rung chuyển nổi. Với bất cứ giá nào đạt được ý chí bất khuất. Thật ra trong thâm tâm mang hận xuống tuyền đài khó nguôi.
Trong quẻ dịch bốc lên rất đẹp mà tính nguyệt tướng bị khắc kể như vô vọng, vậy cái áo đã thêu chữ ”Quân” phải là hiên ngang, chỉ sợ đại vận mạt, tiểu vận được Đẩu quân đắc cách khác chi nắng hạn được mưa phùn.
Thái Tuế, Đẩu quân hai thầy trò chi phối thân thế sự nghiệp nhân sinh cho đến hạn hành từ Đại vận ( Thái tuế – thiên thời) đến Tiểu vận ( Đẩu quân – Nguyệt tướng).
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)