Tiền ngôn
Tử vi đẩu số của Trung Châu Phái có một phương pháp đặc biệt, có thể từ tinh diệu và tinh hệ tại Mệnh cung giám định nhận biết diện mạo, thân hình cùng một vài tính cách đặc trưng. Chúng tôi không có khả năng gặp một người, lập tức nói ra chính xác toàn bộ tổ hợp tinh hệ tại Mệnh cung, nhưng sau khi lập Mệnh bàn, có thể căn cứ vào tinh hệ tại Mệnh cung để kiểm tra giám định. Kiểm tra diện mạo tất có nguyên nhân, mục đích là để kiểm tra việc lập Mệnh bàn có chính xác hay không. Thông thường do vì luận đoán “Tử vi đẩu số”, chỉ bằng việc có người tới báo chính xác năm sinh, tháng, ngày, giờ để khởi bàn an tinh, Mệnh bàn lập xong lập tức dùng để luận đoán, đến nỗi nhận xét sai lầm về vận trình của đời người, thậm chí có thể tạo thành bi kịch. Tình hình này làm cho người ta khổ tâm. Bằng diện mạo thân hình sinh lý đặc trưng để kiểm định Mệnh bàn có chính xác hay không chính xác, thực tế là sự việc không nên sơ xuất xem thường. Mệnh bàn có vấn đề, có thể do hai loại nguyên nhân:
Thứ nhất, người được xem báo sai dữ liệu giờ ngày tháng năm sinh. Rất thường gặp tình hình báo sai giờ sinh. Bút giả đã trải qua nhiều lần kinh nghiệm, bố mẹ người được xem kiên trì báo giờ sinh là chính xác, bút giả tốn thời gian tính toán lại giờ sinh thì bị bất mãn, sau khi kiểm tra lại ở bệnh viện, chứng minh bút giả xác định chính xác. Hy vọng độc giả sau khi lập Mệnh bàn, nếu phát hiện nghi ngờ không ngại thay đổi giờ sinh một chút, sắp xếp một cái Mệnh bàn khác để so sánh.
Thứ hai, theo như sư phụ của bút giả, mỗi giờ sinh đều có “Thiên bàn”, “Địa bàn”, “Nhân bàn” để phân biệt. Nói một cách tổng quát, tại đầu giờ với 15 phút đầu để phân chia tả hữu (vu thì đầu đích thập ngũ phân chung tả hữu), sử dụng “Địa bàn” thôi toán; tại cuối giờ với 15 phút cuối để phân chia tả hữu (vu thì vĩ đích thập ngũ phân chung tả hữu), sử dụng “Nhân bàn” thôi toán; ngoài ra căn cứ vào thời gian với 1 giờ nhỏ 30 phút (kì dư cư vu thì thân đích ước nhất tiểu thì tam thập phân chung thì gian), thì sử dụng “Thiên bàn” để thôi toán. Nhất nhất từng cái một nhưng mà, đây chỉ là tình huống tổng quát, do tại xuất sinh địa bất đồng, cùng với ảnh hưởng của tổ đức (đức trạch của tổ tiên và cha mẹ), căn cứ kinh nghiệm, khó dùng máy móc để phân định thì khắc, quy định thời gian của thiên địa nhân bàn. Ví dụ như, người sinh vào 5 giờ 13 phút sáng, nên dùng Địa bàn luận đoán, do vì người sinh bên trong 15 phút đầu giờ Mão, nhưng có khi trải qua giám biệt, có thể phải dùng “Thiên bàn”, chẳng qua là có khi đúng đối với người sinh vào 5 giờ 16 phút, lại cần phải xá “Thiên bàn” mà dùng “Địa bàn”. Với chủng loại tình hình dưới đây, giám biệt thân hình, diện mạo, sinh lí đặc trưng, lại biến thành càng gia tăng thêm trọng yếu. Cung vị sử dụng để giám biệt, thông thường là “Mệnh cung”. Nhưng Mệnh cung với các tinh diệu phần nhiều lại cận chủ là người với tiên thiên hình thái. Nếu hậu thiên hình thái có cải biến trọng yếu như thế nào, cần phải đồng thời xem xét “Thân cung”.
Điều gọi là tiên thiên hình thái, là chỉ cơ bản diện hình; thân đoạn dáng vẻ chiều cao; tị và quyền cao hay thấp; có hay không có mao phát dị sinh; có hay không có tiên thiên vết ban vết bớt vết chàm cùng với nốt ruồi lạ; nhãn thần thanh trọc cùng với nhãn hình vân vân mà nói. Những nét đặc trưng này, cũng không tùy thuộc vào tuổi tác của đời người mà có tích chất căn bản không cải biến nhiều. Còn như hậu thiên hình thái, thì cùng với tuổi tác của đời người có liên quan, cải biến thay đổi rõ ràng nhất là mập ốm, ngoài ra cũng bao gồm có hay không có hậu thiên với phá tướng xanh xao vàng vọt, nguyên nhân là màu da hậu thiên sinh hoạt có cải biến, cùng với tước ban, ám sang, hắc chí sẽ tự sinh, thậm chí có hay không có cận thị, tán quang những sinh lí đặc trưng bên trong. Những việc như thế này, đều có thể kiểm thị xem xét các tinh diệu tại “Thân cung”. Nhưng có một phần thuộc về di truyền tính với nét đặc trưng, thì thích hợp kiểm thị xem xét “Phụ mẫu cung”, cổ nhân có gọi Phụ mẫu cung chính là “Tướng mạo cung”, tức là từ cung vị này có thể, nhìn ra từ phụ mẫu di truyền tới đời sau với hình thái cơ bản (Thậm chí bao gồm di truyền về tật bệnh). Bởi vậy khi giám biệt Mệnh bàn, cũng ứng với tham khảo những cái cung vị này.
Liên quan về tinh diệu biểu hiển cho thấy với thể thái cùng tính cách, cổ nhân có một thiên “Hình tính phú”, đề xuất nhiều nét đặc trung, bút giả nhất nhất từng cái một tiến hành chú thích, độc giả có thể tham khảo, nhưng đáng tiếc đây là những thiên phú văn chỉ chú trọng về tinh diệu mà không đề cập về tinh hệ, cho nên ứng dụng khởi lai có hạn chế. Bất quá chỉ là nói sự thật, cho dù là “Trung châu phái” sở truyền, thật ra cũng thiên trọng về tinh diệu. Liên quan về tư liệu tinh hệ giám biệt hình tính, bút giả đã làm một vài cái ghi chép, nhưng vẫn tiếp tục chưa đầy đủ tường tận, hi vọng tương lai có thể bổ sung.
Giáp: Hình tính phú chú thích
Nguyên phu Tử Vi đế tọa, sinh vi hậu trọng chi dung.
Chú giải: Tử Vi chủ nhân thể thái yêu bối phì mãn, viên trường kiểm hình, tuy phì bất ung thũng, tuy sấu bất lộ cốt, gọi là “Hậu trọng chi dung”.
Thiên Phủ tôn tinh dã, tác thuần hòa chi thể.
Chú giải: Thiên Phủ chủ nhân diện hình phương hoặc phương trường, nhãn thần mang theo thanh khí, mà lại đa phần là răng trắng môi hồng, xưng là “Thuần hòa chi thể”.
Kim điểu viên mãn, Ngọc thỏ thanh kì.
Chú giải: “Kim ô” chỉ Thái Dương, chủ nhân diện hình mang theo viên; “Ngọc thỏ” chỉ Thái Âm, tuy dù cũng là viên kiểm hoặc là trường chi viên kiểm, nhưng sắc da không hồng nhuận như Thái Dương.
Thiên Cơ vi bất trường bất đoản chi tư, tình hoài hảo thiện.
Chú giải: Thiên Cơ đa chủ người trung bình không cao không thấp, tâm nhu nhuyễn mềm yếu nhẹ dạ, nhưng cũng tính cấp nóng, diện hình đa trường sấu. Nhập miếu thì là trường kiểm mang theo viên.
Vũ Khúc nãi chí cương chí nghị chi thao, tâm tính quả quyết.
Chú giải: Vũ Khúc chủ là người tính tình cương nghị, xử sự quả đoán, nhưng thốn ngại nhãn quang quan điểm bất viễn.
Thiên Đồng phì mãn, mục tú thanh kì.
Chú giải: Thiên Đồng chủ là người trường phương diện hình, đái viên. Thông thường cùng là bàn phong mãn. Nhưng tuy dù phong mãn mà vẫn mi thanh mục tú, đúng là nét đặc trưng.
Liêm Trinh mi khoan khẩu khoát mà diện hoành, là người tính bạo, hảo phẫn hảo tranh.
Chú giải: Liêm Trinh chủ là người thể thái thô tráng, mi khoan, khẩu khoát, quyền lộ, (kiên) vai di cốt lộ, diện hình hoành viên mà đái cốt tiết lăng giác. Thông thường tính cách cùng mang theo phù táo, duy thường với người có “Văn diệu” thì ngược lại ôn uyển thuần hòa.
Tham Lang là thiện ác chi tinh, nhập miếu tất ứng trường tủng, xuất viên tất định ngoan hiêu.
Chú giải: Tham Lang sinh nhân, tính tình bất thường, ái ác vô định. Hoặc công tâm kế, hoặc tính cấp mà hảo lộng xảo, hoặc thì thủ đoạn viên hoạt, năng thi nhân lấy ơn huệ, cố xưng là “Thiện ác chi tinh”. Cư tại hãm cung, hình tiểu thanh cao đa cốt; nhưng nhập miếu, thì trường tủng cao đại, thể thái phong mãn.
Cự Môn chính là thị phi chi diệu, tại nhập miếu đôn hậu ôn lương.
Chú giải: Cự Môn nhập miếu, thể thái phì bàn, trung cao thân tài (vóc dáng cao vừa phải); nếu lạc hãm cung, thì chủ là người sấu tiểu. Phàm người lạc hãm, chủ là người đa bối diện (sau lưng) thị phi, mà lại tính đa nghi hoặc. Duy chỉ vô luận nhập miếu hoặc lạc hãm, cùng đa trường phương diện hình.
Thiên Tướng tinh thần, Thiên Lương ổn trọng.
Chú giải: Thiên Tướng chủ là người tính tình trì trọng ôn hòa, vả lại nhãn thần chính đại mà thanh hòa; Thiên Lương chủ là người, thể thái tuy bất toán (không xem là) phong hậu viên mãn, nhưng hành tàng cử chỉ nét mặt tự nhiên có nhất đoạn hậu trọng chi khí: ổn trọng đại phương phóng khoáng độ lượng trang nhã.
Thất Sát như Tử Lộ bạo hổ bằng hà.
Chú giải: “Bạo hổ nhẫm hà” là bất nộ nhi uy, chủ yếu là chỉ Thất Sát sinh nhân với nhãn thần cử chỉ. Tử Lộ là học sinh của Khổng Tử, tinh thần thể mạo có sẳn sự uy nghiêm.
Hỏa Linh Dự Nhượng tự nuốt than làm cho ách.
Chú giải: Dự Nhượng tìm kế thứ sát Ngô Vương Liêu, tự mình hóa trang biến dung, nhưng vẫn cũng với thanh âm cấp nhân nhận ra, cho nên thôn hạ thán khối (nuốt than), làm cho thanh âm tê ách. Mệnh cung Thân cung nếu kiến Hỏa Linh nhị diệu, thanh đới thường dể ám ách, vả lại đa mao phát, thậm chí mao phát tự nhiên loan khúc quăn queo.
Bạo hổ bằng hà hề mục đại hung ngoan; thôn thán vi ách hề ám ngoan thanh trầm.
Chú giải: Tử Lộ cùng Dự Nhượng đều bất đắc thiện chung (không thể chết già, chết yên lành), cố vân. Nhưng cần phải chú ý, dạng này với thôi đoạn thật ra rất khái quát, chỉ là chỉ về một chủng loại khuynh hướng cơ bản, không thể lấy đó làm kết luận.
Tuấn nhã Văn Xương, lỗi lạc Văn Khúc.
Chú giải: Văn Xương Văn Khúc đều chủ là người mi mục thanh tú như họa, nhưng Văn Xương thì nhàn nhã thông minh, Văn Khúc thì lỗi lạc đại phương phóng khoáng rộng lượng. Nhưng Xương Khúc nhị diệu đồng hội Mệnh cung, chủ là người diện đái viên hình, cho dù “Chính diệu” chủ là người tiêm sấu gầy ốm, cũng có thể biến thành hạ ngạc tiêm viên (cằm dưới nhọn).
Tại nhập miếu nhất định sinh dị chí, thất hãm tất có ban ngân.
Chú giải: Văn Xương Văn Khúc chủ “Ban điểm”, cử phàm mặc, chí, ban ngân, ma điểm, tước ban chi loại, đều là “Ban điểm”. Tổng quát là với người nhập miếu tuy dù có “Ban điểm” mà không ảnh hưởng quan chiêm (vẻ đẹp bên ngoài), nếu lạc hãm thì về dung mạo có tổn hại. Duy chỉ với kiến Sát Kị mới đúng là như vậy.
Tả Phụ Hữu Bật, kiến ôn lương quy mô.
Chú giải: Tả Phụ Hữu Bật đồng hội Mệnh cung, có thể làm người có thân hình chuyển thành thanh tú. Tả Phụ thì giác Hữu Bật là đôn hậu.
Kình Dương Đà La, có kiểu thể thái gian trá.
Chú giải: người có Đà La nhập Mệnh cung, chủ là người nha xỉ bất tề; Kình Dương nhập Mệnh cung, thì đa chủ thương tàn. Ngũ quan đều thiếu đoan chính, Đà La tuy lược kiến thể thái thô tráng, duy giai đấu thần tình kiểu gian trá.
Nếu phùng Khôi Việt, tất phải (có đầy đủ) cụ túc uy nghi.
Chú giải: Thiên Khôi viên kiểm, Thiên Việt phương kiểm, giai cụ uy nghi.
Mệnh hội Tam Thai, thì thập toàn mô phạm.
Chú giải: liên quan về “Tam thai” có nhiều chủng loại bất đồng về thuyết pháp, tương đối có thể tin được, đúng là “Tả Hữu hội Tử Vi”, “Tả Hữu giáp Thiên Phủ”. Đều chủ là người tướng mạo thể thái uy nghi khả quan.
Phá Quân bất nhân, bối hậu mi khoan, hành tọa yêu tà.
Chú giải: Phá Quân chủ là người thể thái yêu viên bối hậu. Mi tâm khoan nghiễm, nhưng khi hành tọa thì xiêu vẹo yêu tà. Viên trường diện hình, sắc da mang theo thanh bạch. Bẩm tính bất nhân, hỉ trợ nhân ác bất trợ nhân thiện. Duy chỉ tất phải kiến Sát Hình Kị chư diệu mới đúng là như vậy.
Tính thái như xuân, chính là Lộc Tồn chi thịnh đức.
Chú giải: Lộc Tồn chủ là người kiểm viên trường, đa sấu, hình cô. Nhưng đối với mọi người thì khẩu giác xuân phong.
Tình hoài tự hỏa, thành phá háo chi uy quyền.
Chú giải: “Phá háo” chỉ Phá Quân, Phá Quân nhập Mệnh, cũng chủ là người tính tình cương liệt, gian hành nghiêu lộng hiểm.
Lộc phùng Lương ấm, bão tư tài ích vu tha nhân.
Chú giải: Thiên Lương và Lộc Tồn đồng độ, hoặc Thiên Lương Hóa Lộc, cổ nhân nhận xét là ngược lại vương tổn tài, tác sự điên đảo.
Háo ngộ Tham Lang, sính dâm tình tử tỉnh để.
Chú giải: “Háo” chỉ Phá Quân. Phá Quân nếu cùng với Tham Lang đồng hội, cổ nhân nhận xét là chủ dâm bôn.
Văn Khúc ám hợp Liêm Trinh, là tham vọng chi tào lại.
Chú giải: Liêm Trinh và Văn Khúc đồng cung, cổ nhân nhận xét là tất phải làm công môn tào lại.
Thân Mệnh ti sổ, thật gian đạo chi kĩ nhân.
Chú giải: không tường tận, nghi ngờ phú văn có khuyết lậu.
Tử Vi phì mãn, Thiên Phủ tinh thần, Lộc chủ Thiên Lương, dã ứng hậu trọng.
Chú giải: Kiến tiền chú (xem chú giải ở trên).
Nhật Nguyệt Khúc Tướng và Thiên Cơ, đều là mĩ tuấn chi tư, chính là thanh kì chi cách, thượng trường hạ đoản, mục tú mi thanh.
Chú giải: Cổ nhân xem trọng thể thái ổn trọng, cho nên “Thượng trường hạ đoản” tức đúng là mĩ cách, cùng với người thời nay có quan điểm thẩm mĩ bất đồng. Ngày nay người tuấn tú, ngược lại đa phần “Thượng đoản hạ trường”, quan điểm cổ kim có khác biệt.
Vũ Khúc Tham Lang, hình tiểu thanh cao mà lượng đại.
Chú giải: đây là chỉ Vũ Khúc tọa Mệnh, Tham Lang tọa Mệnh, cùng Vũ Khúc Tham Lang đồng độ đẳng tam chủng loại tình hình mà nói.
Thiên Đồng Đà Kị, phì mãn mục miễu mà hối manh, hình xấu mạo thô.
Chú giải: Thiên Đồng Đà La đồng cung, mục miễu, thể phì. Tái kiến Sát Kị, thì hình sửu mạo thô. Lại vừa có giá trị Háo Sát Kình Dương, thân thể tao thương.
Chú giải: Phá Quân, Kình Dương đồng cung, chủ thân thể tao thương, bao gồm khai đao động thủ thuật.
Nếu ngộ Đà La Cự ám, tất sinh dị chí.
Chú giải: “Cự ám” tức Cự Môn. Cự Môn và Đà La đồng cung, chủ thân có dị chí, nhất là điều gọi là “Dị chí”, chỉ chí có mao, hoặc chí hình đột xuất (có hình lồi ra như mai rùa) tục xưng là “Ô quy” các loại.
Ngoài những điều ở trên đem với “Hình tính bối vũ” có liên quan thân hình, diện mạo, tính cách với phú văn trích xuất, cũng tóm lược gia tăng chú giải. Còn lại là những phần không có liên quan, nhất khái tòng lược (một mực theo tóm lược).
Ất: “Trung Châu Phái” chư tinh hình tính
Là phương tiện giúp độc giả tự mình đem lí giải diện hình, diện sắc, trước tiên liệt kê thuyết minh diện hình phân làm tám loại như sau:
1. Viên kiểm (mặt tròn): diện đoản, ngạch (trán) và địa các (tức là phần quai hàm phần dưới của mặt hai bên quai hàm đến cằm) cùng trình viên hình.
2. Phương kiểm (mặt vuông, mặt chữ điền): ngạch bộ và địa các cùng trình phương hình.
3. Trường viên kiểm (mặt hình bầu dục): ngạch và địa các tuy dù viên, nhưng diện hình trường.
4. Trường phương kiểm (mặt hình chữ nhật): ngạch và địa các tuy dù phương, nhưng diện hình trường.
5. Viên phương kiểm (mặt chữ điền): ngạch và địa các tuy dù viên, nhưng lưỡng quyền cao, diện có lăng giác.
6. Phương viên kiểm: ngạch và địa các tuy dù phương, nhưng lưỡng quyền viên.
7. Thượng viên hạ phương: ngạch viên, địa các phương.
8. Hạ viên thượng phương: ngạch phương, địa các viên.
Diện sắc phân thành sáu loại:
1. Tử thang sắc: sắc da giống như đen nhưng không phải đen, giống như trắng nhưng không phải trắng, đỏ thấu.
2. Hồng hoàng sắc: sắc da hoàng, nhưng đái hồng.
3. Hoàng bạch sắc: sắc da bạch, nhưng đái hoàng.
4. Thanh bạch sắc: sắc da bạch, nhưng đái thanh.
5. Thanh hoàng sắc: sắc da hoàng, nhưng đái thanh.
6. Tử hắc sắc: sắc da hắc, nhưng đái thanh.
7. Hoàng hắc sắc: sắc da hắc, nhưng đái hoàng.
8. Hồng bạch sắc: sắc da bạch, nhưng đái hồng.
Chư tinh hình tính:
1. Tử Vi.
Diện sắc là tử thang sắc, lão niên hoặc chuyển thành hồng hoàng sắc. Cũng có nguyên nhân do các tinh diệu khác ảnh hưởng mà trở thành người hoàng bạch sắc. Diện hình trường viên, hoặc đái sấu. Yêu bối phong mãn. Trung đẳng thân tài (vóc dáng trung bình). Tính tình đôn hậu hào sảng cảnh trực, nhưng đa chí cao khí ngạo, chủ quan rất cường mạnh. Ái ác tùy tâm, hơn nữa ái ác cường liệt. Duy mỗi dể thiếu quyết đoán lực, tuy dù có tài lĩnh đạo, lại dể nhĩ nhuyễn (thích nghe lời nịnh hót).
Tử Vi Phá Quân đồng cung, nếu Sát Kị tịnh kiến, thì khả năng nhãn thần du di bất định. Tử Vi kiến Phụ, Tá chư diệu, chủ quan cường mà chủ kiến thiếu, duy chỉ thể thái tướng mạo tất phong hậu đại phương, song mục từ mà hữu thần.
Tử Vi Tham Lang đồng cung, kiểm hình đái biển. Tử Vi Lộc Tồn đồng cung, thể thái tuy phong hậu, nhưng thần cô.
2. Thiên Cơ.
Diện sắc thanh bạch, lão niên chuyển thành thanh hoàng sắc. Diện hình trường viên đái sấu, hoặc trường viên kiểm. Nhập miếu thì thân trường phì bàn, lạc hãm vương sấu cùng trung cao thân tài.
Thiên Cơ Cự Môn đồng độ, cũng chủ sấu. Hội hợp Cát diệu thì tâm từ; hội hợp Hung Sát thì giảo hoạt. Tính tình chủ tâm từ tính cấp, cơ mưu đa biến, hảo động hảo học, nhưng dể rơi vào ảo tưởng hảo huyễn, Thiên Cơ đa hội Sát Kị chư diệu, nhưng hậu thiên giáo dưỡng không tốt bất thiện, dể rơi vào hạ lưu.
Thiên Cơ Thái Âm đồng độ, mục quang linh động mà trầm tiềm.
Thiên Cơ Thiên Lương đồng độ, mục quang lãnh tuấn mà bất nhiếp nhân.
Thiên Cơ Cự Môn đồng độ, mục quang phù phiếm.
3. Thái Dương.
Diện sắc hồng bạch, hồng hoàng, hoặc đái tử hồng. Diện hình bão mãn, viên kiểm, hoặc trường viên kiểm. Tại Ngọ cung, chủ thân khu cao đại; lạc vào hãm cung, trung ải thân tài (vóc dáng thấp bé); vượng cung thì trung cao thân tài (vóc dáng trung bình). Tính đại phương sái thoát, lượng khoan trung cảnh, mà lại bẩm tính thông minh. Thái Dương Hóa Kị, có nhãn tật, hoặc thì kiến xích ti xâm bạch tình (hoặc có khi thấy sợi đỏ trong lòng trắng). Thái Dương cư tại miếu vượng, mục quang có thần thái. Nhưng Ngọ cung thái quá vượng, ngược lại chủ có mục tật. Thái Dương Hóa Kị tái kiến Sát diệu, song mục nhất đại nhất tiểu (một to một nhỏ), hoặc nhất cao nhất đê (một cao một thấp).
4. Vũ Khúc.
Diện sắc thanh bạch, thanh hắc, hoặc thanh hoàng, nói chung mang theo một ít hơi hướng thanh sắc. Diện hình trường viên, đa đái sấu. Vũ Khúc cư Thìn Tuất nhị cung, là người “Thiên La Địa Võng”, chủ thân hình sấu trường.
Vũ Khúc Thất Sát đồng cung tại Mão cung, ngược lại chủ thể thái phì bàn; đồng cư tại Dậu cung, cũng là người có thân trường cao đại. Ngoại trừ các cung vị trình bày ở trên, Vũ Khúc với đặc trưng là “Hình tiểu thanh cao mà lượng đại”. Tính quả cảm cương nghị, tâm trực vô độc, có quyết đoán lực, nhưng đa đoản kiến. Là người có nhãn thần chính đại. Nhưng nếu người có Vũ Khúc Hóa Kị thì thần sắc chuyển thành suy thảm, đa bất thọ. Vũ Khúc Hóa Kị tái kiến Sát diệu, nếu chưởng văn (chỉ tay) biến thành bình hoạt (nhẵn thín), chủ hữu nham chứng.
5. Thiên Đồng.
Diện sắc hoàng bạch. Diện hình trường phương, hoặc trường phương diện đái vi viên. Phàm Thiên Đồng tại Mệnh cung, đều chủ là người thể thái phong mãn, mi thanh mục tú, nhãn thần nhân từ. Nếu Thiên Đồng Hóa Kị, thì nhãn thần nhu nhược; tái hội Sát diệu, thì chủ phá tướng (xanh xao hốc hác). Tính khiêm tốn ôn hòa, bẩm tính cảnh trực, phạ sự (ngại gây sự thích yên thân). Nhưng tư tưởng cao siêu, năng học năng thành.
Thiên Đồng Cự Môn đồng độ, ngộ Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh, chủ thân thể có dị chí hoặc thai kí (bớt chàm).
Thiên Đồng Thái Âm tại Ngọ cung đồng độ, kiến Sát diệu, chi thể doanh hoàng.
Thiên Đồng Đà La đồng độ, ba mãn mà mục miễu, hoặc nhãn tế.
Nữ mệnh Thiên Đồng Thái Âm: cư Tý cung đồng độ, nhãn thần lưu diễm.
6. Liêm Trinh.
Diện sắc hoàng, hoặc hơi thoáng hiện đái hoàng hắc sắc.
Cùng với Tham Lang đồng độ, thì diện sắc hoàng bạch. Diện hình trường viên mà sấu, kiến Sát Kị thì trường tiêm (tiêm hạ ba: phần dưới nhọn). Mi khoan, khẩu khoát, quyền cao.
Cùng với Thiên Phủ đồng độ thì chủ phì bàn, nhưng bì phu thô hắc.
Phàm Liêm Trinh tại Mệnh cung, đều chủ là người đa ngôn. Nhãn thần lộ quang, nhãn mi lộ cốt, lưỡng quyền lộ lăng. Nếu như kiến Sát Kị Hình diệu, thì tị lộ khổng, tai lộ hoành cốt. Tính bất câu nệ lễ tiết, bạo táo phù đãng, dể khởi phẫn tranh. Duy kiến “Khoa diệu” “Văn diệu”, thì hảo lễ nghĩa.
Cùng với Thiên Phủ đồng độ, thác chủ nội tâm khoan hậu.
Cùng với Tham Lang đồng độ, ngoại biểu viên hoạt.
Cùng với Thiên Tướng đồng độ, nhãn thần hữu quang, nhưng lưu vào phù, hoặc lưu vào hoạt.
Nếu cùng với Thất Sát đồng độ, kiến Sát Kị Hình diệu, thì nhãn thần bạo lộ, hoặc xích ti xâm bạch tình.
Liêm Trinh Phá Quân đồng độ, tính thiếu nhẫn nại, mục cấn thần tán hoán.
7. Thiên Phủ.
Diện sắc hoàng bạch. Cùng với Liêm Trinh đồng độ thì bì phu thô hắc. Diện hình lấy phương hình làm chủ, hoặc phương kiểm, hoặc trường phương kiểm, hoặc hơi thoáng hiện đái viên hình chi biển phương kiểm. Thân đa phần là phì bàn to béo, lão niên thì phát phì bàn. Trung cao thân tài (vóc dáng to cao). Ngũ quan đoan chính, tâm tính ôn hòa trung hậu, có nghị lực, nhưng thiếu trùng kích lực. Là người đa học đa năng, bảo thủ cẩn thận. Nhãn thần tú tuấn, nhưng bất lưu làm diễm lệ. Duy nếu hội hợp Sát Kị Hung diệu, thì mục quang lưu tẩu bất định. Nữ mệnh Thiên Phủ, tị đa trình đảm hình (mũi hình quả mật).
8. Thái Âm.
Diện sắc thanh bạch, hoặc hơi thoáng hiện đái thanh hoàng, nếu lạc vào hãm cung, thì diện sắc thanh hắc. Diện hình lấy viên làm chủ. Hoặc viên kiểm, hoặc trường viên mà đái làm phương. Tính đa phần là hướng nội, nhưng thông minh mẫn cảm, hỉ dụng tâm kế, đa tư đa lự. Ngoại biểu thì đoan trang ôn hòa, thần sắc gian nhã. Nếu Thái Âm hội Đào hoa chư diệu, thì nhãn thần mê đỗng, hoặc nhãn mục thường đái diễm quang, tức là điều mà tục ngữ gọi là “Đào hoa nhãn”. Thái Âm và Văn Xương Văn Khúc hội hợp, ngũ quan tuấn tú thanh kì, nhưng nhãn thần dể lưu vào phù đãng.
9. Tham Lang.
Diện sắc thanh bạch, hoặc thanh hoàng. Diện hình trường viên, hoặc viên phương lộ cốt. Nhập miếu thì thân khu phì mãn cao đại, nếu cư tại hãm cung, thì hình tiểu thanh cao mà lượng đại, nhưng tính tình bất thường. Tại phương diện tính cách, thông thường cùng chủ kế thâm mưu viễn, ái ác vô định. Tác sự tính cấp, bất nại trữ tĩnh. Hảo thực thi tiểu xảo thủ đoạn. Phàm Tham Lang nhập Mệnh, có nhiều đam mê sở thích, đúng là dựa vào sự hội hợp của các tinh diệu cát hung mà xác định tính chất. Nhưng hội Văn diệu, thì thi tửu phong lưu, khốc ái đam mê văn nghệ; nếu hội Đào hoa chư diệu, thì đa tham hoa tửu; nếu hội Sát diệu, thì hữu yên tửu tiển hảo (thích rượu chè nghiện hút). Nhãn thần thường đái phù đãng, Nữ mệnh thì nhãn thần lưu lệ, đa thiếu chính đại. Nếu hội Văn Xương Văn Khúc, nhãn thần dể lưu làm giảo trá. Nếu hội Không diệu, ngược lại nhãn thần kiến chính trực thanh lãng. Tham Lang lạc hãm, kiến Dương Đà, lại vừa Hóa Kị, chủ diện có ba ngân ban chí. Tham Lang cư Tý cung, kiến Dương Đà, nam nữ đều cùng nhãn có diễm quang.
10. Cự Môn.
Diện sắc thanh hoàng, lạc vào hãm cung thì thanh hắc. Cùng với Thái Dương nhập miếu đồng độ hoặc hội chiếu, thì diện sắc hồng hoàng; nếu cùng với Thái Dương lạc hãm đồng độ hoặc hội chiếu, diện sắc thanh hắc đái hồng. Diện hình trường phương, hoặc trường viên. Thông thường thể thái cùng chủ sấu tiểu, hoặc trung đẳng thân tài (vóc dáng trung bình). Duy cùng với Thái Dương tương hội tại Tị Ngọ nhị cung, thì mới chủ phì bàn. Tâm tính trung hậu, nhưng đa nghi. Diện mục thanh tú, khẩu tài lưu lợi, có tình cảm với chính nghĩa, duy đa học thiểu tinh, mà lại thường vô sự bôn mang vất vả, tác sự tâm tính vô định. Nếu Cự Môn Hóa Kị, thì là người đa bối diện thị phi, tuy vô ác ý, lại dể làm cho bằng hữu phân tranh. Cự Môn và Đà La đồng cung, chủ thân hữu dị chí.
11. Thiên Tướng.
Diện sắc thanh bạch, hoặc thanh bạch đái hoàng. Diện hình vi phương kiểm, hoặc vi đái viên. Thông thường cùng trung đẳng thân tài, trung niên về sau thể thái có khả năng chuyển thành phì bàn. Thiên Tướng chủ tướng mạo đôn hậu, ngũ quan đoan chính, cử chỉ ổn trọng. Bẩm tính hảo bão bất bình, ngôn ngữ thành thật, khoan hậu khẳng khái, cố năng tể nhân chi cấp (có thể giúp đỡ người khác khi cấp bách), nhưng cảm tình dể dàng bị trùng động kích động. Nhãn quang thanh triệt minh lãng, thần sắc từ hòa. Nhưng nếu cùng với Vũ Khúc, Phá Quân, hoặc cùng với Thất Sát, Kình Dương, Đà La hội chiếu, canh phùng Kị Hình, Không Kiếp, thì nhãn thần thường đái ưu thích mê đỗng.
12. Thiên Lương.
Diện sắc hoàng bạch. Diện hình trường phương. Tị trực, quyền cao, đa phần thân khu là phì bàn, trung ải thân tài (vóc dáng thấp bé). Đặc biệt người với Thiên Lương cư Ngọ cung đa ải bàn (đa phần là thấp bé béo phệ), nhưng người cư Tị cung thì thân khu sấu trường. Tướng mạo ổn trọng, sái thoát đại phương. Tính tình cảnh trực vô tư, lâm sự quả cảm quyết đoán.
Cùng với Thái Dương đồng độ, lại vừa kiến Văn Xương Văn Khúc, chủ thông minh xuất chúng, nhưng tâm ngạo hảo thắng.
Cùng với Thiên Cơ đồng độ, bác cổ thông kim, thiện trường từ lệnh.
Nhãn thần lãng, duy chỉ người cư Ngọ cung đái tuấn lợi, mục quang bức nhân. Lạc vào hãm cung, lại vừa kiến Đào hoa chư diệu, thì nhãn thần cũng có diễm lệ. Cùng với Thiên Hình, Kình Dương đồng độ, nhãn thần mê đỗng.
13. Thất Sát.
Diện sắc hồng hoàng, hoặc hoàng bạch. Diện hình trường phương, chiếm phần lớn là người đái sấu. Thân tài trung đẳng, phì bàn sấu bất nhất. Mục đại, nhãn thần đa phần bất nộ nhi uy. Tính cấp. mà lại bên ngoài biểu hiện quả đoán, mà nội tâm thì nhiều do dự nghi ngờ. Người hội Cát diệu các sao, nhãn thần uy mà hòa; người hội Hung diệu các sao, nhãn thần uy mà duệ. Nếu Tứ sát tịnh chiếu, tái phùng Hình Kị, thể thái có nhiều thương tàn. Nhất là cổ nhân nhận xét là chủ đà yêu khúc bối (bụng bự lưng gù). Căn cứ kinh nghiệm, cũng dể bị bệnh hoạn tiểu nhân ma tý (bại liệt trẻ con) chứng mà đưa đến tàn tật.
14. Phá Quân.
Diện sắc thanh hoàng. Diện hình trường viên. Phàm Phá Quân nhập Mệnh, tất chủ bối hậu, mi khoan, hành tọa yêu tà (ngã nghiên xiêu vẹo). Hoặc phá tướng (xanh xao hốc hác), hoặc cận thị, hoặc khẩu tật, hoặc sản thì nan sản (khó sinh), hoặc bất túc nguyệt sinh (sinh non). Thân tài trung đẳng, hoặc trung ải. Bàn sấu bất nhất. Phá Quân nhập miếu thì tâm địa trung hậu thiện lương. Phá Quân cư vào vượng địa, bản tính cảnh trực, xử sự có nghị lực, thiện về khai sáng. Phá Quân lạc hãm, thì tính cương quả hợp, hảo cường hảo tranh, thậm chí hảo hành nghiêu lộng hiểm. Nhập miếu thì nhãn thần lãng, lạc hãm thì nhãn thần trọc.
15. Chư diệu chi ảnh hưởng.
Văn Xương: chủ đa tước ban, chủ bàn, chủ hoàng bạch sắc.
Văn Khúc: chủ đa mặc chí, chủ chủy hữu lăng giác (miệng có góc cạnh), chủ thanh hoàng hoặc thanh hoàng sắc.
Tả Phụ: chủ sấu trường, chủ hoàng bạch sắc.
Hữu Bật: chủ trung ải thân tài, chủ có chí (nốt ruồi), hoặc có ban điểm. Chủ địa các tiêm phương, hoặc tiêm viên.
Thiên Khôi: chủ địa các tiêm phương, hoặc tiêm viên mà tiểu. Trung ải thân tài, là sấu.
Thiên Việt (Khôi): chủ địa các phương hình, là phì bàn.
Lộc Tồn: chủ là viên kiểm, địa các viên, hội Sát thì hình cô. Hội Thiên Mã thì ngạch phương mà bão mãn (trán vuông mà đầy đặn).
Thiên Mã: chủ trung đẳng thân tài, bất sấu. Chủ ngạch giác cao tủng bão mãn.
Kình Dương: cùng với Xương Khúc, Tả Hữu đồng cung, chủ có ám chí hoặc ba ngân. Diện hình thượng thái hạ tiểu hoặc thượng viên hạ phương mà đái tiêm.
Đà La: bất sấu, nha xỉ bất tề (răng không đều), hoặc có thương tàn. Diện hình thượng viên hạ phương.
Hỏa Tinh: chủ diện hình thượng tiểu hạ đại, hoặc thượng phương hạ viên mà đái lăng giác. Mao phát đa dị sinh.
Linh Tinh: chủ diện hình thượng tiêm viên mà hạ phương. Mao phát đa dị sinh.
Địa Không: chủ diện tiêm (mặt nhọn). Địa các tiểu, thiên đình (Tức ngạch giác) cũng tiểu, diện trình nguyên hạch hình.
Địa Kiếp: thiên đình bất túc, địa các bất mãn, cố tòng trắc diện thị chi (nhìn nghiêng), ngạch tà (trán lệch), hạ ba tà (cằm xiên).
Thiên Khốc, Thiên Hư: chủ tiêm hạ ba.
Cô Thần, Quả Tú: trạch đầu tiểu.
Kiếp Sát: chủ thiên đình địa các bất bão mãn.
Đào hoa chư diệu: địa các tiêm phương, hoặc tiêm viên. Nhãn thần đái diễm sắc.
Phá Toái: chủ là người hình cô.
Phi Liêm: chủ là người chủy hình bất giai (hình miệng không đẹp).
(Trung Châu Phái – Tử Vi Đẩu Số Sơ Cấp Giảng Nghĩa)