Gọi là “tứ hóa”, tức là bốn động thái khí hóa, biến hóa, biến động của sao, tức là sao nào đó được thiên can khởi động làm cho tính tình và nghĩa lý của nó biến hóa theo hướng tốt hoặc hướng xấu với bốn loại kết quả khác nhau. Tứ hóa cụ thể là: Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, gọi tắt là: Lộc, Quyền, Khoa, Kị.
Một trong các quy tắc luận đoán cơ bản là “dùng tứ hóa để tìm khế cơ”. Dùng tứ hóa để tìm khế cơ chính là lấy tứ hóa đế tìm ra lúc phát động sự tình cát hung. Tứ hóa là lực vận động chuyển hóa của các sao, là động thái biến hóa thay đổi và khế cơ của sự tình nào đó.
Cho nên tứ hóa rất là quan trọng trong việc phân tích luận đoán Đẩu Số, là then chốt chuyển biến thành tốt hay xấu của một sự tình; các lực vận động chuyển hóa này có thể biến đổi cát tinh thành hung tinh, và cũng có thể biến đổi hung tinh thành cát tinh. Thông thường gặp sao Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Hóa Khoa, là “hóa cát”; gặp sao Hóa Kị là “hóa hung”, nhưng cũng không phải là tuyệt đối, cần kết hợp tình hình cụ thể của tổ hợp cung và sao để quyết định. Ví dụ, cung Tật Ách gặp Lộc Quyền thì không nhất định là tốt, vì ý tượng của sao Hóa Lộc ở cung Tật Ách là nhiều tình duyên, đa tình với tật bệnh thì làm sao tốt được? Sao Hóa Quyền vào cung Tật Ách, ở cung miếu vượng thì cát, ở cung thất hãm là tai họa. Hóa Kị nhập cung Quan Lộc, là về sự nghiệp mệnh chủ rất chịu siêng năng cần cù, chịu gánh vác, làm việc rất tích cực, kết quả tuy là có cống hiến đối với xã hội, nhưng đối với bản thân thì hưởng không được bao nhiêu lợi ích. Đã là tìm khế cơ, nên phải là nói về đại vận và lưu niên, tứ hóa của đại vận hoặc lưu niên mới có thể phát động cát hung, có tác dụng làm cho nổ ra sự tình, là cơ sở để điềm báo ở nguyên cục xảy ra sự tình tốt hay xấu. Cho nên, nguyên cục lấy tình của sao là chính, tứ hóa là phụ, còn đại vận và lưu niên thì rất xem trọng tứ hóa.
Dùng tứ hóa để đoán việc, cần phải lấy sao hóa làm “thể”, lấy tứ hóa làm “dụng”. Tức là, tứ hóa phát động tác dụng, còn tình của sao hóa là biểu thị ý nghĩa đặc thù của bản thân sự việc; nhưng kết quả của sự biến động thay đổi này, phải lấy tình của sao hóa làm cơ sở để xem, xem sự tình biến động thay đổi thành dạng nào. Ví dụ, Thiên Cơ là sao chủ về “động”, chủ về có nhiều tính toán kế mưu; khi Thiên Cơ Hóa Lộc là chủ về tính toán tìm giải pháp tốt, Thiên Cơ Hóa Kị thì biến thành đa nghi; can năm sinh khiến Thiên Cơ Hóa Lộc thì chủ về một đời có nhiều kế sách, Hóa Kị thì chủ về một đời đa nghi. Muốn biết ai nhiều mưu kế, ai đa nghi, thì phải xem Thiên Cơ ở cung chức năng nào, Thiên Cơ ở các cung Mệnh Tài Quan Tật Phúc Điền là có liên quan với Mệnh chủ, Thiên Cơ ở cung lục thân thì có liên quan với người của cung đó. Ví dụ, Thiên Cơ Hóa Lộc ở cung Tài Bạch, là nhờ vạch kế sách tốt mà phát tài, Hóa Kị ở cung Tài Bạch thì vì kế hoạch thiếu chu đáo, đa nghi, hồ đồ mà hao tổn tiền bạc.
Mỗi một sao đều cùng lúc có đặc tính ở hai phương diện tốt và xấu. Trong tình huống thông thường, miếu vượng và hóa cát phần nhiều là phát triển theo hướng tốt, tích cực; còn thất hãm và Hóa Kị đa số là phát triển theo hướng xấu, tiêu cực.
Lộc, Quyền, Khoa thuộc về Cát, gọi là “Hóa Cát”; Hóa Kị là Hung, gọi là “Hóa Hung”. Bất kể là mệnh bàn nguyên cục hay là vận hạn, thông thường gặp Lộc Quyền Khoa đều cát, nhưng mức độ cát có chỗ khác nhau: Lộc là được mà không phải hao tốn công sức, Quyền là phải phấn đấu nỗ lực mới có được, Khoa là nhờ sự trợ giúp của quý nhân mà có được. Hóa Lộc mà gặp Không, Kiếp, Kị là “cát xứ tàng hung”, việc sắp thành lại hỏng.
Hóa Kị là chỗ hiển hiện thần cơ trong Đẩu Số, sao Hóa Kị có thể kích động toàn cục, cho nên Kị là trọng tâm rất quan trọng trong tứ hóa. Lúc phần tích tứ hóa, trước tiên phải xem Kị ở đâu, kế đến là Lộc Quyền Khoa. Kị nhập cung là làm cho xấu đi, Kị xung cung là làm cho bùng nổ, cho nên xung cung là tiêu điểm xảy ra sự cố, nếu xung cung qua lại thì hậu quả rất nghiêm trọng.
Đứng từ góc độ quan hệ nhân quả để xem tứ hóa, sao Hóa Kị cùng cấp là kết quả, lấy sao Hóa Lộc cùng cấp để xét nguyên nhân. Lấy cung chức năng để xem, cung có thiên can phát động tứ hóa chính là căn nguyên của tứ hóa, là nguyên nhân sinh ra sự kiện (xem tên cung và sao của cung này để biết nguyên nhân phát động sự tình; tên cung chỉ ra đại thể, tình của sao chỉ ra chi tiết). Cung đầu nguồn mạnh hay yếu sẽ ảnh hưởng đến mức độ mạnh yếu của tứ hóa. Muốn biết xảy ra chuyện gì, kết quả như thế nào? Thì lấy cung có tam hóa cát nhập hoặc cung được tam hóa cát chiếu để xem, luận theo hướng tốt; hoặc lấy cung có Kị nhập hoặc cung bị Kị xung để xem, luận theo hướng xấu (lấy cung có sao Hóa Kị làm nguyên nhân, cung bị sao Hóa Kị xung làm hậu quả). Xin cử ví dụ, cung Tử Nữ là can Mậu khiến Thiên Cơ ở cung Tài Bạch Hóa Kị, sự kiện là hao tổn tiền bạc, nguyên nhân là do con cái, vãn bối hay thuộc cấp gây ra; xung cung Phúc Đức là làm cho mệnh chủ buồn phiền.
Ý nghĩa cơ bản của tứ hóa như sau:
Hóa Lộc: Có duyên vói người, tài lộc, tình duyên, hữu tình, tài nghệ, hưởng thụ. Hóa Lộc là tình. Hóa Lộc nhập các cung Mệnh Tài Quan Phúc Điền là vào đúng chỗ, chủ về tài lộc, tài nghệ, hưởng thụ, gặp cơ hội tốt, sản nghiệp; nhập cung lục thân là chủ về có duyên phận và tình nghĩa sâu nặng với người của cung đó.
Hóa Quyền: Thành tựu, tài cán, kỹ thuật, quản thúc, áp chế, bá đạo, tự phụ, nắm quyền, nguyên tắc. Hóa Quyền là tranh thủ. Hóa Quyền nhập cung lục thân là chủ về việc gì cũng muốn quản, thái độ cứng rắn, dễ xảy ra tranh chấp. Nhập cung Tử Nữ, là đối với con cái rất nghiêm. Nhập các cung Mệnh Tài Quan thì chủ về có tài cán, thành tựu, kỹ thuật, biến động thay đổi. Nhập cung Điền Trạch, chủ về nhà ở sang trọng, nhiều bất động sản, có quyền uy trong gia đình.
Hóa Khoa: Thiện duyên, hóa giải tai ách, quý nhân, tiếng tăm, tài nghệ, các sự cố không may thông thường đều vượt qua được. Hóa Khoa là thái độ hòa hợp. Hóa Khoa nhập cung lục thân, là chủ về người của cung đó là quý nhân của mệnh chủ, sống với nhau hòa mục mệnh chủ được họ trợ giúp; nhập các cung Mệnh Tài Quan Điền là chủ về danh tiếng, ổn định, bình yên, thuận lợi, chính đáng.
Hóa Kị: Mắc nợ, thiếu hụt, hung họa, chấp trước, mê muội, ôm giữ, biến động thay đổi, đạo nghĩa, tình nghĩa (ý là mắc nợ tình nghĩa). Hóa Kị là si tình, cực đoan, trở ngại, trì trệ, hết đường xoay sở, vô kế khả thi. Hóa Kị có nghĩa là “mắc nợ, thiếu hụt”, nhập vào cung nào là biểu thị mệnh chủ mắc nợ cung đó. Ví dụ, nhập cung Thiên Di là mắc nợ chuyện xa quê hương”, mạng số phải bôn ba bên ngoài, đi xa; nhập cung Phu Thê, là mắc nợ duyên tình. Hóa Kị nhập các cung Mệnh Tài Quan Điền chủ về lui về thủ, tổn thất, sự nghiệp thất bại, hao tổn tiền bạc, biến động thay đổi theo hướng xấu. Hóa Kị nhập cung chi biểu thị quan hệ không bình mà thôi, xung cung mới là điểm bị phá hoại thật sự. Ví dụ, nhập cung lục thân là măc nợ tình đối với người của cung đó, vì quan tâm quá độ mà dân đến không hòa mục, xảy ra tranh chấp bất hòa; còn xung cung lục thân là sự tình đã đến mức tuyệt tình.
Theo sự không ngừng thay đổi của thời gian và không gian/ mọi vật và sự tình cũng đeu thay đổi. Nếu đại vận, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhạt, hoặc lưu thời thay đổi, thì điềm tượng cát hung thiện ác của các sao cũng theo đó mà thay đổi để phản ánh tình trạng cát hung thiện ác muôn màu muôn vẻ của đời người ở một địa điểm và thời gian cụ thể. Các sao Tử Vi Đẩu Số sau khi rơi vào cung, ở trong cùng một không gian và thời giạn, tức trong cùng một vận hạn, chỉ phản ánh tình huống một lần biến động thay đổi tùy theo điểm thái cực sau khi đã chuyển hoán cung vị (tức cung và sao đã thay đổi ý nghĩa). Nếu không có tứ hóa, thì không biến động thay đổi nữa, nếu sẽ xảy ra biến động thay đổi nữa phải thông qua tứ hóa để phát động điềm tượng của các sao. Cho nên vận hạn thay đổi là xem ở trạng thái “động”. Các sao bất động, thì không phản ánh ra được tình hình cát hung; có thay đổi thì có động”, có “động” thì có kết quả cát hung. Do đó có thể thấy, tứ hóa chính là “dụng thần” trong Tử Vi Đẩu Số. Tình của sao tốt hay xấu cũng; chi: là điềm tượng, phải dựa vào động thái của tứ hóa mới có thể định hình cát hung họa phúc, tức là kết quả.
(Tử vi đẩu số tinh hoa tập thành – Đại Đức Sơn Nhân)