Trông vào bản lập thành của lá số, thấy cung thiên bàn rộng rãi ghi năm tháng ngày giờ, mệnh, cục của nó. Ngoài giáp biên 12 cung địa bàn một vòng địa chi viết mỗi cung một chữ theo đường lối nam thuận nữ nghịch đủ một vòng. Đó là tên năm tiểu hạn. Mỗi khi xem hạn của năm nào thì lấy cung có ghi tên chữ đó làm đích, như người tuổi Bính Thân gặp năm Tỵ, thì lấy chữ Tỵ nằm sát cạnh cung Mùi. Cung Mùi đó là tiểu hạn năm Tỵ của tuổi Bính Thân.
Quyết định được một Đại Vận 10 năm tốt xấu là một việc rất khó, mà xuống đến tiểu hạn 1 năm tưởng sự lầm lẫn còn gấp bội. Một chữ Tỵ thì 12 năm lại bắt vòng tới, thành ra trong đời người cứ kể là 60 năm, có 5 năm Tỵ. Có lý nào Tỵ nào cũng giống nhau sao! Đành rằng 5 năm Tỵ đó còn tùy thuộc ở 5 Đại Vận tốt xấu mà thay đổi thêm bởi sự hên xui. Như trên đã nói, nhận xét được một Đại Vận tốt không phải là dễ, thì cái lầm lẩn này đưa vào tạm đem ra phân tách để tìm ra chân lý.
Mười hai cung trong lá số, mỗi cung mang một tên rành rẽ, có 1 giây liên hệ cho cung mệnh. Khi nhìn vào số thấy ngay cái quan trọng khắng khít giữa Mệnh, Quan và Tài, thường thường thấy vẽ hình tam giác bắt liên lạc với nhau, trong sách số kêu là “tam hợp”, có nghĩa là Mệnh Quan Tài tuy 3 là 1. Tam hợp là thế đứng chân vạc của Mệnh, tốt hay xấu, thắng hay bại, một khi tranh đua với đời.
Thế tam hợp Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ, là thế chánh của tuổi, và người tuổi gì Thái Tuế ngồi ngay ở cung mang tên đó, mặc dầu Mệnh bị lạc ở cung khác. Một khi cơ hội vận chuyển đến Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ kể như đất sống của mình, quê quán điền sản của một bộ quý tinh chủ về may mắn hưng vượng và quyền uy. Hành của tam hợp tuổi là hành chính xác căn bản tranh đấu của Mệnh. Người tuổi Bính Thân thì tam hợp Tí Thìn là thủy hành. Mỗi thời gian đại vận chuyển đến cung nào thì lấy hành của tam hợp cung đó khắc chế với hành của tam hợp tuổi. Nếu đồng hành với mình là tốt nhất (ở trong đó có Long, Phượng, Hổ, Cái). Nếu sinh nhập là tai hại (có Thiên Không ), vì lẽ Thái Tuế là quá tốt, không thể có gì vượt qua Thái Tuế nên phải gắn ngay Thiên Không để ngăn chận.
Thế tam hợp thứ nhì là hành của tam hợp tuổi bị sinh xuất như Thân Tí Thìn đi gặp Hợi Mão Mùi, là Thủy sinh Mộc. Sự nghiệp của đương số chỉ là bữa ăn thịnh soạn mời khách đến hưởng. Khắc xuất là trường hợp Thân Tí Thìn ( Thủy) gặp Dần Ngọ Tuất (Hỏa), mình phải gắng công tranh đấu, nếu Mã ở đó thuận lợi, sẽ được hài lòng. Bị khắc nhập là vận mạng tàn tạ khó ganh đua.
Mỗi đại vận là một Thiên Thời. Đắc thiên thời thì đời lên hương. Mất thiên thời thì đời sẽ thấy khó khăn để rồi xuống dốc.
Còn 2 yếu tố phụ là Nhân Hòa và Địa Lợi. Nhân Hòa là tinh đẩu của hạn, có cùng trong hệ phái của Mệnh là cùng 1 bộ trong thế lưỡng nghi chính tinh, và hết sức loại tránh lục sát tinh, nhất là Không, Kiếp. Địa Lợi là hành của cung và hành của Mệnh có tương đắc hay không?
Được cả 3 điều kiện là quá tốt. Thường thường chỉ cần được 1 Thiên Thời cũng mãn nguyện.
Tiểu hạn là hạn hành một năm. Một chữ hàng Chi không đủ. Như tuổi Bính Thân. Bính thuộc hàng Can hành Hỏa là gốc. Thân thuộc hàng Chi hành Kim là ngọn. Đi đến năm Tỵ, phải biết rõ Can của Tỵ, như Ất Tỵ hay Đinh Tỵ, Tân Tỵ hay Quí Tỵ, thì mới căn cứ được rành rẽ. Một chữ Tỵ là bỏ gốc chỉ xét có ngọn làm sao thấu đáo?
Trước khi tính đến sao nằm ở cung tiểu hạn. Việc chính yếu là phải so sánh hàng Can của Mệnh với Can của năm hạn. Được sinh nhập là tốt nhất, thứ đến là khắc xuất, trái lại bị sinh xuất ôi thôi cảnh suy bại không chứng nọ cũng tật kia, như tiền nhân đã nói : “hữu phước tán tài, vô phước tán mạng”. Hàng Can bị sinh xuất hay khắc nhập mà cung tiểu hạn có Quyền Lộc cũng không đáng mừng, có khi là nguyên cớ để gây suy sụp. Trường hợp hàng Can giống nhau, như hàng Giáp gặp Giáp, Ất; Đinh gặp Bính Đinh, tức là thế bình thì dễ xui hơn là hên, phần sao sẽ làm lệch đòn cân thăng bằng. Nhưng còn phải để ý đến những năm xung, năm tuổi, năm phá, năm hạn, nghe một cái tên cũng biết là ngang trái cho đời sống.
Năm tuổi là năm vận hành luôn luôn đứng ở vị trí Phá Hư ở địa bàn, tức là bất mãn. Năm xung là năm đối kháng. Năm phá là năm đồng loại tiêu hao nhau (tứ sinh 2 cặp, tứ chính 2 cặp, tứ mộ 2 cặp: Tí Dậu phá nhau, Sửu Thìn phá nhau, Dần Hợi phá nhau, Mão Ngọ phá nhau, Tỵ Thân phá nhau, Mùi Tuất phá nhau). Năm hạn là năm kỵ.
Điều cốt yếu phải để ý là đại vận là phần chính, bao trùm cả tiểu hạn. Dầu tiểu hạn tốt xấu chỉ phụ giúp hay giảm bớt 10% sự việc may rủi đại vận chủ trương quyết định.
Xuống đến nguyệt hạn, thấy nhiều lối tính làm ra vẻ mỗi năm đều khác, như tiểu hạn ở năm Mùi thì lấy ngay cung Mùi làm tháng giêng, hoặc lấy cung Mùi làm đích tính nguyệt nghịch thời thuận đến cung nào lấy cung đó làm tháng giêng.
Xem ra chỉ là một lối làm theo ý riêng của từng người. Tháng Giêng đã gọi là tháng Dần, không thể để Mùi hay Tỵ, Tuất gì được. Ngay khi bắt đầu lập thành số cũng phải lấy cung Dần, đến đi là Dần. Nói trùng ảnh hưởng của sao thì hàng Can mỗi tháng giêng mỗi năm mỗi khác nhau đủ sự chế hóa phải thay đổi luôn luôn như: năm Đinh Tỵ tháng giêng là Nhâm Dần; năm sau Mậu Ngọ tháng giêng lại là Giáp Dần, năm sau nửa Kỷ Mùi tháng giêng biến là Bính Dần, ảnh hưởng đương nhiên là biến dịch.
Sau 10 tuổi đời nào những ai có đến 2 vận Thái Tuế.
Càn Khôn nhất hí trường
Thân sinh thị bi kịch.
Đã biết sự khắc chế ở hàng Can là gốc hên xui, nhưng tới mức độ nào, phải so sánh nạp âm của tuổi và nạp âm của thời hạn như: tuổi Nhâm Tí gặp năm hạn Mậu Ngọ thì thấy: Can Mậu khắc Can Nhâm, 2 chi Tí và Ngọ xung (Thiên khắc Địa xung). Nạp âm Nhâm Tí (mộc), sinh xuất cho nạp âm Mậu Ngọ (Hỏa), cho kết quả thấy 95% nguy hại. Nếu người tuổi Nhâm Ngọ thì Can cũng bị khắc, Chi bình hòa, chỉ là tuổi nạp âm vẫn Mộc sinh Hỏa, nhưng còn bị bồi thêm hạn gặp Cô Quả (Thổ) kể như 2 lần khắc Can, tất nhiên kết quả phải là tỷ lệ 90% khốc liệt.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)