Bài viết chép lại lời nói đầu của cuốn Hi Di Khảo Luận – Dương Thành rất hay để mọi người cùng có cái nhìn về môn Tử Vi.

Khoa thiên văn nhằm tìm hiểu sự vận hành của vũ trụ. Khoa địa lý nhằm chọn lựa địa thế tốt đẹp phù hợp cho sự thịnh vượng con người. Các khoa học tự nhiên nghiên cứu sự sống của muôn vật. Khoa tâm lý tìm hiểu sự suy thịnh động của con người. Còn khoa Lý số học ngoài mục đích dự đoán về cuộc đời, còn dự phần không nhỏ vào sự phân tích tâm sinh lý của chúng ta.

C.Jung, bác sĩ phân tâm học nổi tiếng Âu Châu đã một thời mong ước đem Kinh Dịch vào việc chẩn đoán bệnh tâm thần, nhưng ông đã thú nhận không đủ thời gian và khả năng nghiên cứu Dịch, dù đã được Wilhelm truyền đạt lại môn Dịch học. Ông ao ước, một ngày nào đó, có người đi sau sẽ góp công nghiên cứu Dịch lý để đem vào môn phân tâm học. Ý nghĩ táo bạo trên của C.Jung không phải là huyễn hoặc, ông là người nhìn xa trông rộng, nhưng tiếc là tuổi thọ chẳng đủ dài để thực hiện nổi ước mơ của mình.

Khoa Lý số học của phương Đông đã có từ mấy ngàn năm, đã có biết bao bậc thầy tài năng, đạo đức đáng nể bàn về Lý số học, sách xưa để lại không ít, những lời dẫn giải cũng chỉ xoay quanh phúc lợi thọ yểu, ít người quan tâm đến tâm tư tình cảm rất người ở mỗi chúng ta.

Con người có những điểm khác và giống nhau, màu da nòi giống có khác nhau thì phong tục tập quán cũng khác nhau, đó là điểm khác biệt, nhưng ai cũng phải ăn để sống, sống để yêu thương, giận hờn, mừng lo, ham muốn dù thể hiện dưới hình thức nào, cũng có điểm chung giống nhau, nới lên cái tâm tư thầm kín trong lòng mỗi người chúng la.

Ngày nay, tuy không phải là quá trẻ, nhưng chúng tôi cũng mạo muội vạch ra con đường nhỏ bé khảo cứu phương pháp Lý số học của Hi Di Trần Đoàn đi giải quyết các vấn đề tâm lý và hành động cho con người. Trường phái phân tâm học dùng Lý số học như một phương pháp chẩn đoán y học về những căn bệnh ức chế tâm hồn, ức chế là những cảm nghĩ bị chèn ép nằm sâu trong tiềm thức. Những ước định của nền đạo đức giáo dục đã dồn nén chính con người vào khuôn khổ được ấn định chung cho xã hội loài người. Càng bị dồn nén, càng nhiều ức chế, nhiều lo âu thắc mắc. Thế đã có ai không một lần trong đời tự hỏi hoặc tìm thấy để giải đáp những lo âu thắc mắc về một khoảng thời gian nào trong đời của mình chưa? Nói như thế cũng như lại hỏi: “Đố ai nằm ngủ không mơ!”.

Trường phái phân tâm học đứng đầu là Sigmud Freud đã dùng giấc mơ, thậm chí dùng thôi miên để đào xới những ẩn ức trong tiềm thức con người, nhằm giải tỏa ức chế cho bao bệnh nhân tâm thần.

Tại sao chúng ta lại bỏ quên khoa Lý số học, không đem nó áp dụng vào việc chẩn đoán và điều trị bệnh ức chế tâm lý.

Các nhà tâm lý học, phân tâm học tìm hiểu các ức chế của bệnh nhân qua thể trạng và những lời tâm sự của họ, hầu mong đưa ra một phương thức điều trị.

Nay chúng ta dùng ngày sinh tháng đẻ đi áp hằng số sao cung và tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của mỗi người qua các ký hiệu là các sao, hẳn cũng hiểu được không ít trạng thái tâm hồn, cá tính và tâm tư, tình cảm, đồng thời đưa ra phương cách xử thế dựa trên tính chất và vị trí đứng của các sao.

Khoa phân tâm học phương tây dựa vào tâm sự của người bệnh để luận đoán cái ức chế trong lòng họ, âu cũng là phương pháp thường nghiệm được hệ thống hóa qua nhiều năm nghiên cứu. Con người phương Đông cũng có hàng ngàn năm kinh nghiệm phán đoán con người qua các Cách, các cục của môn Lý số học. Phương pháp giải đoán của khoa Lý số học phải có một chỗ đứng đáng kể trong trường phái phân tâm học ngày nay.

Thử phác họa một cách áp dung Lý số học vào phân tâm học:

1. Xét năm sinh: Năm sinh đươc ghép bởi Can Chi chia ra làm 6 nhóm, mỗi nhóm cũng đã mang một màu sắc riêng biệt.

Những người thuộc nhóm:

– Giáp Tí thì Chi sinh Can, ngọn nuôi gốc vì như con phụng dưỡng cha mẹ, hỏi nuôi được bao lâu? Cuộc sống có đầy đủ cũng là hình thức bề ngoài.

– Giáp Ngọ thì Can sinh Chi, gốc nuôi ngọn là bền vững lâu dài.

– Giáp Dần, Can Chi đồng hành thì cuộc sống vững vàng, là hình ảnh cha mẹ trường thọ, con cái đề huề.

– Giáp Thân, Chi khắc Can, thì ngọn lai phá ngọn, sự nghiệp đâu có là bao, ví như con không báo hiếu nổi cha mẹ.

– Giáp Thìn, Giáp Tuất, Can khắc Chi, ngọn không nuôi nổi ngọn, cuộc đời gặp nhiều khó khăn, phải tự lo lấy thân.

Mới nhìn thoáng qua Can Chi của Tuổi cũng đã thấy con người sinh ra mỗi người hầu như đã mang một cái nghiệp nào đó.

Dù có mạnh mẽ đến đâu ta cũng không thể tự chọn cho mình một cửa vào để được sinh ra là con ông này bà nọ. Dù có tài giỏi đến đâu ta cũng không thể sinh ra một đứa con theo ý muốn được.

Với kiến thức khoa học ngày nay về di truyền, người ta đang tìm kiếm cách sắp xếp các gene trong chuỗi ADN qua nhiều thế hệ để tính chuyện chọn lựa một nòi giống lý tưởng, âu cũng là điều đáng mong đợi, nhưng thưc tế cho biết cái cơ chế xếp đặt các phần tử trong sợ nhiễm sắc (chromosome) là muôn vàn rắc rối, con ngườn khó thực hiện được.

Những gì chưa đo được bằng phương pháp khoa học hiện đại không có nghĩa là không có, cái mà chúng ta không nhìn thấy vẫn hiện hữu ở quanh ta, vì con mắt vẫn chỉ là một chiếc máy ảnh thô sơ, vỏ não cũng vẫn chỉ là một màn hình đơn giản so với những màu nhiệm của thiên nhiên. Chỉ có ý thức con người mới vượt thời gian và không gian, đón nhận cái huyền bí của tạo hóa.

2. Xét Âm Dương của Mệnh và cung An Mệnh, lại thêm một điều kỳ lạ. Phần đông những người tuổi Dương, Mệnh đóng ở cung Dương hoặc tuổi Âm, Mệnh đóng ở cung Âm, thì tâm tính ổn định, sự nghiệp vững vàng. Ngươc lại, Mệnh Dương đóng cung Âm, mệnh Âm đóng cung Dương thì lúc chăm chỉ, lúc sao lãng, sự nghiệp cũng lắm bước thăng trầm.

Vậy thì với kinh nghiệm phán đoán, chúng ta cũng có lời khuyên đương số hãy can tâm tiếp nhận sóng gió để sẵn sàng đối phó, chứ không phải biết để lo sợ.

3. Mệnh có chính tinh và mệnh vô chính diệu cũng có khác nhau

Mệnh có chính tinh thì như thế được tốt nghiệp chính quy ở một nhà trường, hay dở cũng còn tùy thuộc vào một số sao trong mệnh.

Nếu mệnh có Tử Phủ Vũ Tướng thì dù tuổi trẻ có lận đận khó khăn cũng đừng thất vọng chán nản, sẽ có dịp vươn lên trong một xã hội phồn thịnh, một lờỉ khuyên có bằng cứ cũng giúp cho đương số an tâm mạnh mẽ tiến lên,tháo gỡ được mặc cảm tự ti khi chưa có sự nghiệp.

Mệnh có Tử Phủ Vũ Tướng mà bị Tuần triệt án ngữ, thì dễ gặp trở ngại trên đường công danh do hoàn cảnh xã hội đổi thay. Dự đoán trước để không bị hụt hẫng khi vào đời. Vạch ra cách dự phòng để giảm thiểu thất bại là cách giải tỏa tự ti.

Mệnh có Sát Phá Tham thì có đầu óc thực tế, thích tham dự vào cuộc sống cho nên để có sư nghiệp lớn lao. Nếu người có Sát Phá Tham mà chưa thành đạt, ắt hẳn đã gặp phải lũ sát tinh cản lối, nên khuyên họ bình tĩnh chờ đợi, cuộc đời chắc chắn có dịp vươn lên.

Mệnh có Cơ Nguyệt Đồng Lương, vốn dĩ an phận, hiền lành giỏi giang chữ nghĩa thì chẳng nên làm những việc mạnh bạo liều lĩnh, để thất bại, rồi đâm ra oán trách sối phận hẩm hiu, cũng là một ức chế tự mình tạo ra.

Mệnh có Nhật Nguyệt, Cự Nhật là người ưa tìm lý lẽ, dễ lâm vào thế lưỡng nan, tranh chấp nội tâm, cần được hướng dẫn phân tích cái muốn thực sự của mình mới mong thoát ra khỏi sụ ức chí gây nên bởi lòng tự cao tự đại.

Số phận sang hèn, thọ, yểu đồng ý là có, nhưng:

“Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng hai chữ Tài

cũng nói lên cái khả năng cải số, sửa mệnh của con người.

Ý chí và lương tâm vẫn có nhiều dip thay dõi con đường đi số mệnh.

Người có Nhật Nguyệt đắc địa, có nghĩa là mặt trời phải mọc ban ngày, mặt trăng phải sáng ban đêm, am dương đúng chỗ thì công danh sư nghiệp lâu bền.

Nếu một người bị cách Nhật Nguyệt phản bối nghĩa là mặt trời cố mọc ban đêm, mặt trăng cố sáng ban ngày, đều là nghịch lẽ tự nhiên thì sang giàu cũng sẽ mau nghèo. Tâm tư không ổn định, mong mau có kết quà nên vội vã trong công việc đâm ra hỏng việc.

Hơn nữa Nhật Nguyệt lạc hãm thì ít người học giỏi, biết sâu, tính tình lại nông nổi, dễ nóng giận vô lo là gây họa chẳng lành.

Với những người này, hãy khuyên họ bình tâm mà nhìn thẳng vào lòng mình, hãy trung thực với chính mình để đặt mình vào đúng với tài năng của mình, hầu mong đẩy mặt trời lửa đêm ra buổi mai sáng sủa và kéo mặt trang vào bóng tối của đêm.

Cái ức chế của Nhật Nguyệt lạc hãm cần được giải thoát bằng Tuần Triệt, có nghĩa là phải thay đổi môi trường sống, phải chọn dịp thích đáng với tài năng, phải đánh thức cái chủ quan của họ bằng cách vạch ra cái tham lam u tối, cái mộng tưởng hão huyền nằm sâu trong tiềm thức của họ.

Mệnh có Thiên Hình đắc địa là người biết điều phải trái, còn níu Mệnh có Thiên Hình hãm địa thì lý trí bị che lấp bởi lòng tham, cho nên dễ gặp kiện tụng, tù tội. Biết trước để hạn chế bớt tham vọng, cũng là phương thuốc điều trị hữu hiệu căn bệnh cho mình là sao Bắc Đẩu.

Mệnh có Riêu Y thì quá ướt át, đắc địa thì trong sáng, tín ngưỡng, hãm địa thì dị đoạn, phóng đãng. Với người này cần đem họ trở về thực tế, khuyên họ làm những công việc thực tiễn, khoa học, lao động chân tay để cân bằng cái đầu đầy mơ mộng hão huyền.

Mệnh có Tả Hữu đắc địa là người chín chắn, có tài năng, hãm địa thì vất vả, bó tay, cái ức chế này là do không gặp được thời, không đến đúng chỗ, không làm đúng việc. Giải thoát tâm tư của lớp người này không ai tốt hơn là giúp họ chọn đúng công việc hợp với khả năng của bàn thân mình.

Mệnh có Đào Hồng, sớm có công danh thì dễ kiêu ngạo, sớm biết yêu đương, thì mau chán chường. Người có cách này thì phải tỉnh táo, khiêm nhường mới không gãy đổ vì đi quá trớn.

Mệnh có Không Kiếp thì liều lĩnh dễ thành, dễ bại, phải nên thận trọng đừng bước quá đà.

Mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, tâm tư, tài trí khác nhau.

Nếu biết mình có ưu điểm thì phải kiềm chế lòng kiêu ngạo, tính khinh người. Nếu biết mình thấp kém thiệt thòi thì phải cố vươn lên.

Mỗi bảng số sao cung là một bệnh án khác nhau, mỗi đại tiểu vận là một giai đoạn thăng trầm.

Xem một bảng số sao cung là xem toàn diện cách xếp đặt, diễn tiến của các sao, nếu tinh ý thì thấy được sự liên quan chặt chẽ của các tình huống xảy ra. Có những sao tuy nhỏ bé nhưng lại có hiệu quả nghiêm trọng, có những sao lớn lao mà chỉ là bộ áo khoác ngoài.

MỗI vận hạn xảy đến là một dip thử thách tài năng, một biến cố ngặt nghèo gây ra bởi một số sát tinh có thể dồn đương số vào thế bế tắc, hãy bình tĩnh tìm cách tháo gỡ bằng ba vòng Lộc tồn, Trường sinh, Thái tuế.

Gặp thời vận đẹp đem đến biết bao tài lộc, danh vọng cũng nên cẩn thận dè chừng, một cái bánh cho dù bổ dưỡng cũng vẫn làm đầy bụng nếu cố ăn nhiều.

Số sao thì cố định, nếu các phúc tinh rơi vào một số cung này thì các hung tinh sẽ rơi vào các cung còn lại.

Cung Mệnh, Tài, Quan đươc coi là ba cung chính, liên hệ mật thiết với con người nhưng cung Thân, cung Phúc, cung Di, cung Nô, cung Phối, Tử tức cũng không kém phần quan trọng.

Một hạnh phúc hoàn hào không chỉ nằm trong cung Mệnh mà phải chan hòa cho các cung liên hệ, đây là điều mong ước tham lam của con người, mấy ai được toai ý.

Chính những lúc gặp vận xấu lá lúc lâm vào thế bế tắc, không có đường thoát thì cố gắng gồng lên chịu đựng, tâm lý ức chế phát sinh từ đây. Muốn thoát ra khỏi bế tác thì phải tìm hiểu nguyên nhân của bế tắc mới mong gỡ được thế bí. Thì đây là lúc ứng dụng khoa Lý số học vào cuộc sống tâm lý hàng ngày.

Lấy ví dụ một người gặp hạn Không Kiếp, là mất mát tiền của, danh vọng, thì uất ức chán nản, chạy tìm cách thoát ra khỏi thế bí bằng cách cầu cạnh người có thế lực, mua chuộc, van xin, là phản ứng tự nhiên, ví như người có bệnh thì vái tứ phương.

Nhưng bệnh nào thì phải tìm đúng thấy đó mới là hợp lý.
Người thấy là người có dù tài năng đức độ mới giúp người bệnh qua khỏi hiểm nghèo.

Người thầy thuốc có y đạo thì giúp cho người bệnh mau lành, người thầy tướng số có tâm đạo thì giúp cho người hoạn nạn sớm nhìn thấy đường lối ngay thẳng mà đi, trừ bỏ được tâm tư buồn khổ, giải tỏa được nỗi khó khăn vướng mắc trong lòng.

Ở đây khoa Lý số học đã có sẵn một số dữ kiện đó là các vòng sao trong hằng số sao cung. Ví như gặp nạn thì xem các chính tinh, phụ tinh trong cung hạn xem dương số đang lâm vào hoàn cảnh nào. Muốn xem biến cố, hoàn cảnh thì coi vòng Lộc tốn, muốn xem thời vận hạn thì coi vòng Tràng sinh, còn tìm cách xử trí thì xem vòng Thái tuế. Ví dụ một người gặp vận Thiên Hình mắc kiện tụng, trong hoàn cành Phục Binh bị lừa phản (vòng Lộc tồn), vào thời Tử không có chổ tiến lui (vòng Tràng sinh), xử trí bằng Thiếu Âm, hạ mình đóng vai thấp bé, giả mù sa mưa (vòng Thái tuế) để thoát ra khỏi tai hoa đang giăng bẫy quanh mình.

Nói tóm lại, khoa Lý số học giúp chúng ta đối diện với chính mình, biết mình là ai, tài năng đạo đức ở mức độ nào, thời vận lên xuống ra sao.

Con người ta có thể dám thực với người nhưng it khi dám thực với chính mình. Bản thân đã tự che dấu lỗi lầm, ngươi khác lại không muốn góp ý những khuyết điểm cho mình, cho nên chỉ còn cách lấy số Lý số học của mình mới là tấm gương soi chân thật của bàn thân, giúp mình hiểu mình hơn ai hết.

(Hi Di Khảo Luận – Dương Thành)

Trusted by some of the biggest brands

spaces-logo-white
next-logo-white
hemisferio-logo-white
digitalbox-logo-white
cglobal-logo-white
abstract-logo-white
white-logo-glyph

We’re Waiting To Help You

Get in touch with us today and let’s start transforming your business from the ground up.