Tử Vi không phải là một khoa toán tìm hiểu số mạng một cá nhân, mà còn tiềm tàng trong phần triết học một đạo lý nhân sinh cư xử tinh tế trung thực. Đó là 2 phần nói là riêng biệt, định mệnh đã sắp đặt và hành động bản thân vẫn có liên quan mật thiết đi đôi với nhau. Định mệnh do Thiên Can (vòng Lộc Tồn) và Địa Chi (vòng Thái tuế) phối hợp quyết định hành động hàng ngày do Thân có vòng Tràng Sinh khuyên nhủ (Thiên Địa Nhân).
Cái gì thuộc sở hữu của ta, ta mới mạnh bạo coi như có quyền định đoạt. Cái gì của người định mệnh đã quy định ta phải cư xử sao cho minh bạch thì mới mong khỏi lầm lỡ ân hận về sau.
Thế nhân sanh trưởng trên cõi đất luôn luôn có người thân (tam hợp) kẻ nghịch (xung chiếu). Sống trong tam hợp ta có bổn phận bồi đắp và hãnh diện hưởng thụ những gì là quyền lợi do công lao đào tạo. Sống trên đất người ta chỉ là kiều dân cư lợi phẩm phải là hạn chế sao cho phù hợp cảnh của người ăn nhờ ở. Vòng Thái Tuế cho biết đâu là chánh danh đâu là dân kiều ngụ. Tam hoá Khoa Quyền Lộc là tài nguyên, người sống trong hoàn cảnh phải tự hiểu để hành động theo lẽ phải thì muôn sự đều suôi chiều êm đẹp. Tam hoá do hàng Can ấn định ban cho từng bộ sao, không như Long Phượng, Tả Hữu, Xương Khúc do năm tháng giờ có nơi xuất phát nhất định theo đường hướng thuận nghịch mà đi, nên tam hoá liên châu ở Mệnh, dầu trường hợp nào cũng ảnh hưởng mạnh tuỳ theo tư cách ý nghĩa của Khoa Quyền hay Lộc.
Tuổi Hợi mà được ngồi ở Tỵ đắc tam hoá liên châu Quyền ở Mệnh, Khoa Lộc giáp hai bên là Thìn và Ngọ. Trông vào thấy cả một bức ảnh tô màu tươi đẹp. Sự thật cái đẹp này chỉ là cái đẹp của kẻ mượn áo đẹp khoác vào mồi câu thơm ngon như cá nuốt mồi, nếu hợp lẽ phải là tuổi Tỵ Dậu Sử mới đáng giá 100% với tư cách công dân chính cống Long Phượng in rõ ràng trên thẻ căn cước. Thái Tuế Tam hoá liên châu này với tuổi Hợi, nếu khôn ngoan nên đó chỉ là phẩm hàm chiếc văn bằng khen cho kiều dân đã làm được việc gì gọi là giúp ích mà mình đã có cơ hội gặp thời may làm được không nên tự kiêu hành động quá trớn để rồi ăn năn muôn thuở.
Tỵ Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi là hai thế xung khắc thường đem đến những tính cách quyết liệt khó dung hoà vì cùng một thế âm dương, còn hai thế Thân Tí Thìn và Dần Ngọ Tuất đối với Tỵ Dậu Sửu thì sao?
Thưa rằng Dần Ngọ Tuất đối với Tỵ Dậu Sửu là thế tay trên (khắc xuất mà bị sa lầy) mọi sự đều thua thiệt. Còn Thân Tí Thìn so với Tỵ Dậu Sửu được lợi điểm sinh nhập, nhưng luật thừa trừ vẫn không qua nổi nên thường xuyên bị Thiên Không ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng.
Tam hoá liên châu nhập Mệnh nghĩa là một hoá ở Mệnh, 2 hoá giáp hai bên, đắc cách nhất là Quyền ở Mệnh mà cũng chỉ có một tuổi Canh mới có.
Nói đến tam hoá liên châu phải để ý đến luật âm dương rất nhiều và thận trọng. Âm Dương không những ở cung mà còn đòi hỏi đâu là ảnh hưởng dương đâu là ảnh hưởng âm. Từ Dần đến Mùi thuộc Dương, từ Thân đến Sửu thuộc âm. Tam hoá liên châu là áo gấm có gắn huy chương danh dự làm đẹp cho dương nhân ở chỗ thanh thiên bạch nhật. Người khoác áo vào buổi hoàng hôn cho đến tờ mờ sáng, tưởng chỉ nên tự mãn trong lòng mà thôi với công việc mình trong bóng tối.
Vậy từ Dần đến Mùi xét ra chỉ cung Thìn là đắc cách nhất. Cung Ngọ vấp phải Triệt vì chỉ có tuổi Canh mới có tam hoá liên châu oai hùng, mà tuổi Canh có Triệt quá nặng ở ngay cạnh Ngọ. Có hai tuổi Canh là đại diện cho 6 tuổi dương Canh: Canh Thìn đại diện cho Thân Tí Thìn, Canh Tuất thay mặt cho Dần Ngọ Tuất. Ngôi vị Thìn luôn đàn áp Tuất. Người Canh Tuất ở Thìn là Tuế Phá, người Canh Thìn là Thái Tuế, thấy ngay đâu là chánh nghĩa và thắng cuộc.
Muốn có Quyền nhập Mệnh, người tuổi Canh chạy không khỏi Vũ Khúc Phá Quân ngộ Triệt đương nhiên Phúc Đức, nặng nhẹ tuỳ theo Thái Tuế, Tuế Phá khi đắc thời. Tật ách ở Hợi có Cự Môn là sao ngôn luận đắc địa, một đằng gặp Hồng Loan, một đằng gặp Thiên Không đường ai nấy đi. Hai vị trí Thái Tuế và Tuế Phá có tính cách tuyệt đối khác nhau. Còn lại Thiếu Dương và Thiếu Âm có thể nói là cùng hoàn cảnh thua thiệt. Người được định mệnh đặc phú cho thông minh hơn đời mà cứ thấy cuộc sống dường như bị kẹt cứng (Tử Phủ) dễ sinh ra mưu thần chước quỷ nên số phải vạch thêm ngõ rẽ tam đức (Thiên Đức Nguyệt Đức và Phúc Đức) vẫn ở trong thế tam tài Thiên Địa Nhân nương thân. Còn người ta ra công cố sức làm cho lắm vẫn thấy một lầm hai lỡ trở thành khờ dại nên an ủi mà sống coi công lao của mình với thế cuộc sánh bằng đức cao dày của bậc nguyên huấn (Long Đức)
Biết rằng chỉ một tuổi Canh có tam hoá liên châu đắc Quyền đứng giữa mà là tuổi dương phải đóng cung dương. Còn tuổi âm cũng chỉ có một trường hợp có 3 hoá liền nhau là tuổi Quý được liệt danh là tam hoá hận đời: Hoá Kỵ ở giữa Khoa Quyền giáp 2 bên (xin lập số tuổi Quý Hợi sanh ngày 24 tháng 11 giờ Mão). Thêm một trường hợp nghịch địa âm dương là tuổi Ất (âm) mệnh phải đóng ở cung Thìn (dương) có Tử Tướng, được Khoa đứng giữa giáp Quyền Lộc, nghịch cảnh âm dương là phải thiếu yếu tố hoàn mỹ nên khiến Quyền ra bên. Nơi đây Khoa đứng giữa lại là điều may được việc. Ất là âm đối với âm Nam nên cung Thìn có Đà La giăng lưới nghĩa là Mệnh nằm ở Thiên La. Nếu không có Khoa làm sao Tử Tướng làm được việc. Nhưng đương số nên luôn luôn đề phòng luật bù trừ mà nhớ rằng điều may chỉ có giới hạn. Tuổi Ất mệnh ở Thìn, Phúc Đức ở Ngọ phải là Thất Sát ngưỡng đầu ngộ Triệt được phần nào giảm thiểu chỉ còn 30% mà thôi mới có hy vọng đề phòng. Phúc Đức Thất Sát ở Ngọ hay Triệt đứng trong tam hợp với Thê Tham Lang ở Dần. Bộ Sát Phá Tham dầu hãm hay đắc địa không nên có trong các cung thuộc người thân của Mệnh như Phụ Mẫu, Thê Thiếp…thường đem mối ưu tư làm tê tái lòng người có số.
Tại sao tam hoá liên châu quý hơn tam hoá nhập tam hợp. Tam hoá liên châu nhập Mệnh có ảnh hưởng rộng rãi liên quan tới cả một dòng giống, nghĩa là cha mẹ anh em đều thọ hưởng. Mệnh là một nét gạch nối liền cả 3 cung. Tam hoá nhập tam hợp thì chỉ một mình xuất sắc nổi bật trong gia đình. Muốn đi đến lẽ chánh danh Mệnh phải có Khoa Quan Lộc có Quyền và Lộc ở Tài mới xứng danh người có đức nhân học rộng đáng lãnh quyền cao hưởng lộc hậu. thiết tưởng khó có được một lá số hợp cách.
Triết lý Tử Vi cao rộng như âm dương trong vũ trụ, đây mới chỉ thấy một phần nhỏ li ti mà thôi.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)