Vũ trụ là thái cực. Thiên địa là lưỡng nghi, là âm dương của dịch lý điều khiển vạn vật từ cái hữu hình đến vô hình. Thánh Phục Hy lập thành bát quái làm đồ biểu cho vũ trụ vẽ bằng 2 đường kẻ ngang (vạch dài là dương vạch ngắn là âm). Một điều khiến người học dịch phải tự hỏi mỗi quẻ trong bát quái không phải là vạch lại là:
Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài
Thiên Địa Nhân
Có lẽ nào lại thừa
Thưa rằng nét đó làm vinh dự cho loài người. Vạch trên là Thiên vạch, vạch dưới là Địa, vạch giữa là Nhân tức là con người. Đầu đội Trời, chân đạp Đất: đứng đầu vạn vật đem khối óc tinh vi của mình như thể chống chọi lại với cả thiên địa danh lấy sự sống còn.
Thảo mộc cũng là một sinh vật sinh lão bệnh tử nhưng không có óc. Súc vật có óc nhưng óc chỉ để báo hiệu cho con vật biết những gì là thói quen như đói ăn, khát thì uống, thấy đồng loại khác giống thì thèm sinh lý, đẻ con sơ sinh thì chăn dắt thế thôi.
Vậy Nhân phải là đề tài khá quan trọng của dịch lý nói chung, lý số nói riêng. Thánh nhân lập ra số đã dành ra một phần rất thiết yếu để cho người đời tự suy nghĩ.
Trong lá số ta thấy 2 chữ Mệnh Thân là cả một vẫn đề khiến ta phải hiều ý nghĩa.
Mệnh là sinh mạng của cá nhân do Thiên Địa hoá sinh thành kiếp người trong một khuôn khổ nào, tức là định mệnh của một kiếp nhân sinh, ví như tuổi Giáp Thìn thấy ngay Thiên Can Giáp (Mộc) khắc địa chi Thìn (Thổ). Ta có thể biết tạm thời vận mạng Giáp Thìn đời sống thường chật vật vì Can khắc Chi, thêm Giáp Thìn không phải là tam hợp của Lộc Tồn, và vị trí Lộc Tồn của Giáp Thìn lại còn bị Tuần thủ tiêu mất. Kể như là Thiên Can không đem lại hạnh phúc gì cả *.
Còn địa chi Thìn thì phải tuỳ theo Mệnh đặt nằm ở vị trí nào của địa bàn trong vòng Thái Tuế. Nếu được trúng tam hợp Thân Tí Thìn biết ngay người này được tạo hoá nhồi nắn có tư cách, nhưng khiếm khuyết về hạnh phúc tiền tài*.
Thân và thân thế hành động của dương nhân có chấp nhận định mệnh hay không. Biết rằng Mệnh và Thân luôn luôn ở cùng trong một thế lưỡng nghi, ở dương cung thì cùng dương hoặc âm cung thì cùng âm tuy 6 vị trí có khác: Mệnh Thân đồng, cung Thân ở Quan, thân ở Tài, ở Di, Phúc và Phối.
Nhận thấy ngoài Mệnh Thân đồng, ở cung Quan hay Tài, Thân như hoàn toàn chấp nhận định mệnh. Còn ở Di Phúc và Phối cho thấy thân như không chấp nhận định mệnh vì khác tam hợp của Mệnh. Trườn hợp này sẽ thấy muôn hình vạn trạng khác nhau tuỳ theo 12 vị trí Thái Tuế. Phải chăng thấy cảnh thảm kịch của Thế nhân, vị Thánh làm ra lý số phải thêm 1 vòng Tràng Sinh để cùng với vòng Lộc Tồn (Thiên) Thái Tuế (Địa) nêu lên triết lý xử thế nhắn nhủ người đời lẽ thiệt hơn và hướng dẫn cuộc sống.
Tràng Sinh là bước đường dài từ lúc thụ thai trong bụng mẹ cho đến ngày thành nấm mồ trong mộ địa tuyệt tích, lấy trung bình là 60 năm hoa giáp, dầu làm vương tướng gì cũng gặp cảnh thịnh suy luôn phiên diễn bày.
Tràng Sinh chia ra 2 lẽ sống mà cùng ý nghĩ:
a- Sinh Vượng Mộ Đới Bệnh Thai = Đường hoàng cư xử được người quý mến lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển.
b- Dục, Suy Tuyệt Quan Tử Dưỡng = Ăn xổi ở thời không ai tưởng nhớ giấy rách phải cố xếp lấy lề.
Chia xuống thành tứ tượng tức là 4 tam hợp:
1- Sinh Vượng Mô = đường hoàng mồ yên
2- Dục Suy Tuyệt = vội ham tàn tích
3- Đới Bệnh Thai = thịnh suy hoàn lương
4- Quan Tử Dưỡng = Giấy rách giữ lấy lề
Toàn thể cả vòng là một triết lý khuyên đời xử thế: Đường hoàng cư xử được người quý mến lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển, ăn xổi ở thì không ai tưởng nhớ, giấy rách phải cố xếp giữ lấy lề.
Khối óc suy tư của đệ tam tài (nhân) thật đáng sợ. Từ một thân mình trần đầy xác thịt, ra đời lăn lộn lang thang kiếm ăn cùng các sinh vật khác, nay nghiễm nhiên vượt khí quyển trái đất du lịch một hành tinh khác. Rồi đây không biết còn làm được bao nhiêu việc khiến cho Thiên Địa phải nể mặt. Ta lại càng phải sợ cái đầu óc hàng muôn vạn năm xưa đã vẽ ra dịch lý âm dương áp dụng hàng triệu năm nay vẫn không sai lệch ra ngoài lập luận.
Sau đây xin trình một lá số gọi là giá trị đệ tam tài “Nhân” giám kình chống lại cái mà liệt danh bất khả xâm phạm: Thiên Địa
Tuổi Tân Dậu ngày 10 tháng 4 giờ Tuất (Khổng Minh)
Mệnh và Thân đều bị xếp vào tam hợp Tuế Phá Tang Môn Điếu Khách tức là Thân cũng phải chịu luỵ với Mệnh ở hoàn cảnh trái ý muốn. Mệnh thấy cả một ông trời nhỏ đủ cả ba hột ngọc quý giá nhất của Tử Vi: Nhật Nguyệt, Tả Hữu, Thiên Mã.
Biết rằng Mộc Mệnh mà vô chính diệu thì không thể có một sát tinh nào hành Mộc để làm nòng cốt cho cứng rắn được, chỉ còn thế hư không được Nhật Nguyệt tam hợp chiếu lên là sáng giá bộ Tả Hữu, phụ thêm Thiên Mã ở Hợi vô cùng giá trị cho người mạng Mộc. Đây là một kiếp lai sinh kỳ nhân quái kiệt (Thai, Thanh Long) âm Nam được Thái âm ở Hợi là một cách phù hợp đáng quý. Thiên Mã càng đẹp với tuổi Tân Dậu bao nhiêu lại càng thấy rõ tư cách phò suy chứ không phò thịnh của Mã (vị trí Tuế Tang Điếu) đứng với Tả Hữu càng nổi bật (nghị lực vạn năng).
Thân mới quan trọng, Thái Dương Thiếu Dương Quyền Phá Hư một văn nhân quyết đem trí óc cải số trơi, kình chống hẳn với Cao xanh là Thái Tuế, nhưng lại không được vì vị trí Mão vẫn bị Dậu khắc chế mặc dầu Thái Tuế vị vướng Địa Kiếp (thâm tâm ông hẳn nghĩ Trời đương bị rối bời, biết đâu là ông khiêu khích).
Với tất cả Mệnh Thân này của người Điếu Khách (quyết tâm quyết phục) Phá Hư (quật ngược) dầu khả năng như trên chỉ kém Thượng đế có chiếc ngai vàng, cũng không sao hài lòng đắc ý.
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có Thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
………………….
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ Tài (Vòng Tràng Sinh)
Xin bái phục Nguyễn Du hẳn đã nhiều phen cay cú với lý học định mệnh. Tiên Điền tiên sinh khéo nhắc nhở người đời cái thế sơ khai của “Một là lòng nhân, là chữ Tâm có giá trị bằng 3 chữ Tài.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)