Xem cung Phúc Đức để biết rỗ sự thọ yểu, cùng là sự thịnh suy, tụ tán của họ hàng. Ngoài ra, còn được biết rõ vê âm phần mà mình chịu ảnh hưởng. Cung Phúc Đức chi phối tất cả 11 cung số. Vậy cho nên luận đoán cung Phúc Đức phải rất cẩn thận.
1. Nhận định ảnh hưởng các sao tọa thủ tại cung Phúc Đức để luận đoán phúc trạch, thọ yểu và họ hàng.
1.1. Tử Vi
– Đơn thủ tại Ngọ: hưởng phúc lâu dài. Tránh được nhiều tai họa. Trong họ có nhiều người qúy hiến.
– Đơn thủ tại Tý: suốt đời hay gặp những sự may mắn. Trong họ tuy hiếm người, nhưng cùng khá giả.
– Phủ đồng cung, Tướng đồng cung: suốt đời được xứng ý toại lòng, sống lâu và hưởng phúc. Họ hàng nhiều người giàu sang.
– Sát đồng cung: phải ly tổ, bôn ba mới được hưởng phúc sống lâu. Trong họ có nhiều người giàu sang, hiển đạt về võ nghiệp, nhưng ở xa quê hương.
– Phá đồng cung: Lao tâm khổ tứ, chẳng được yên thân. Phải lìa bỏ quê hương mới khá giả và sống lâu. Họ hàng ly tán.
– Tham đồng cung: suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng, giảm thọ vì bạc phúc. Họ hàng ly tán, người nào khá giả lại chết sớm.
1.2. Liêm Trinh
– Đơn thủ tại Dần, Thân: được hưởng phúc. Trong họ ít của, hiếm người.
– Phủ đồng cung: suốt đời sung sướng, phúc thọ song toàn. Trong họ có nhiều người giàu sang.
– Tướng đồng cung: được hưởng phúc. Họ hàng khá giả nhưng hiếm người.
– Phá đồng cung: vất vả lao khổ, phải xa quê hương mới sống lâu. Họ hàng ly tán.
– Tham đồng cung: giảm thọ, khó tránh được tai ương, họa hại. Trong họ có nhiều người bần
hàn hay mắc tù tội, thường phải bạt quán xiêu cư.
– Sát đồng cung: giảm thọ, hay gặp nguy hiểm, phải xa quê hương mới mong được an toàn. Trong họ có nhiều người chết non một cách thê thảm. Nếu không, cũng phải mang tàn tật, ác bệnh, hay mắc tù tội, khốn cùng.
1.3. Thiên Đồng
– Đơn thủ tại Mão: được hưởng phúc, sống lâu, nhưng thường hay thay đổi chí hướng, hay canh cải công việc. Càng xa quê hương lại càng khá giả. Họ hàng phân tán làm ăn ở phương xa. Trong họ thường có thần đồng xuất hiện.
– Đơn thủ tại Dậu: giảm thọ. Suốt đời lao tâm khổ tứ, hay phải thay đổi công việc và chí hướng, nhưng chẳng được xứng ý toại lòng. Có lập nghiệp ở xa quê hương mới mong được đủ ăn, đủ mặc. Họ hàng ly tán.
– Đơn thủ tại Tỵ, Hợi: suốt đời sung sướng, nhưng giảm thọ. Muốn sống lâu, nên xuất ngoại, nay đây mai đó. Họ hàng ly tán, phiêu bạt, trai gái rất phóng đãng.
– Đơn thủ tại Thìn, Tuất, Cự đồng cung: giảm thọ, suốt đời vui ít buồn nhiều, hay mắc tai nạn, khẩu thiệt, kiện cáo. Phải ly tổ, xa gia đình mới mong được yên thân. Họ hàng ly tán, thường tranh chấp lẫn nhau.
– Lương đồng cung: suốt đời thanh nhàn, được hưởng phúc sống lâu. Trong họ có nhiều người qúy hiến, giàu sang và thường có thần nhân giáng hạ.
– Nguyệt đồng cung tại Tý: được hưởng phúc, sống lâu, Nên lập nghiệp ở xa quê hương, bản quán. Họ hàng qúy hiển, có danh giá, uy quyền tế thế.
– Nguyệt đồng cung tại Ngọ: giảm thọ. Phải ly tổ bôn ba mới mong được yên thân. Họ hàng càng ngày càng sa sút phiêu bạt.
1.4. Vũ Khúc
– Trong họ hiếm người.
– Đơn thủ tại Thìn, Tuất, Tham đồng cung: được hưởng phúc sống lâu. Về già, lại càng xứng ý toại lòng. Trong họ thường có người giàu sang hay hiển đạt về võ nghiệp.
– Phủ đồng cung: được hưởng phúc, sống lâu. Họ hàng khá giả.
– Tướng đồng cung: phúc thọ song toàn. Suốt đời hay gặp may mắn. Họ hàng qúy hiển giàu sang.
– Phá đồng cung: phải lập nghiệp ở xa quê hương, phải sớm xa gia đình mới mong được yên thân hưởng phúc sống lâu. Họ hàng ly tán nhưng có người giỏi vế kỹ thuật, mỹ thuật hay kinh doanh buôn bán.
– Sát đồng cung: giảm thọ vì bạc phúc. Suốt đời lao tâm khổ tứ, hay mắc tai họa. Xa quê hương, xa gia đình cũng chẳng được yên thân. Họ hàng sa sút ly tán, thường có người chết non, mang ác tật hay bần khổ.
1.5. Thái Dương
– Tọa thủ tại Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ: được hưởng phúc, sống lâu và sung sướng. Họ hàng qúy hiển, giàu sang, có danh giá và uy quyền tế thế.
– Tọa thủ tại Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý: bạc phúc nên tuổi thọ bị chiết giảm. Suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Nên ly tổ hay ở xa gia đình. Họ hàng càng ngày càng sa sút ly tán, có nhiều người gian quyệt nhưng bần cùng, có người phiêu bạt giang hồ, lại có người mang ác tật hay mắc tai nạn chết một cách thê thảm
– Nguyệt đồng cung: không được hưởng phúc dồi dào, nên hay gặp trở ngại trên đường đời. Nên tập nghiệp ở nơi thật xa quê hương. Họ hàng khá giả, nhưng ly tán. Nếu sinh ban ngày, phải luận đoán trong họ đàn ông, con trai hiển đạt, còn đàn bà con gái vất vả về chồng con, hay yểu tử. Trái lại, nếu sinh ban đêm, phải luận đoán là trong họ đàn bà, con gái giàu có, sung sướng, còn đàn ông con trai cùng khổ phiêu bạt.
1.6. Thiên Cơ
– Trong họ hiếm người
– Đơn thủ tại Tỵ, Ngọ, Mùi: được hưởng phúc, sống lâu. Họ hàng khá giả
– Đơn thủ tại Hợi, Tý, Sửu: bạc phúc: họ hàng ly tán.
– Cự đồng cung: tuy được hưởng phục, nhưng lúc thiếu thời chẳng được xứng ý toại lòng. Về già hay gặp may mắn. Họ hàng khá giả.
– Lương đồng cung: sống lâu, thanh nhàn, sung sướng. Họ hàng có người giàu sang, và thường có thần nhân giáng hạ.
– Nguyệt đồng cung tại Thân: được hưởng phúc, sống lâu. Trong họ có người giàu sang, nhưng đàn bà con gái thường khá giả hơn là đàn ông con trai.
– Nguyệt đồng cung tại Dần: không được hưởng phúc dồi dào nên suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng bình thường, nhưng đàn bà con gái hay trắc trở vê chồng con, lại có người phong tình hoa nguyệt.
1.7. Thiên Phủ
– Đơn thủ tại Tỵ, Нợi: được hưởng phúc, sống lâu. Họ hàng đông đảo, khá giả
– Đơn thủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: không được hưởng phúc dồi dào. Nên lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương. Trong họ, nhiều người giàu sang, nhưng ly tán.
– Tử đồng cung, Tướng đồng cung: suốt đời được xứng ý toại lòng, sống lâu và hưởng phúc. Họ hàng nhiều người giàu sang.
– Liêm đồng cung: suốt đời sung sướng, phúc thọ song toàn. Trong họ có nhiều người giàu sang.
– Vũ đồng cung: được hưởng phúc, sống lâu. Họ hàng khá giả.
1.8. Thái Âm
– Đơn thủ tại Dậu, Tuất, Hợi: được hưởng phúc trọn đời, sung sướng, sống lâu. Trong họ có nhiều người qúy hiến và giàu sang.
– Đơn thủ tại Mão, Thìn, Tỵ: bạc phúc nên tuổi thọ bị chiết giảm. Suốt đời vui ít buồn nhiều, lao tâm khổ tứ. Nên lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, có sớm xa cách gia đình mới mong được yên thân. Họ hàng ly tán, nhiều người cùng khổ, cô đơn, mang ác tật, phiêu bạt giang hồ, hay mắc tai nạn mà chết một cách thê thảm. Đàn bà con gái trong họ rất vất vả về chồng con.
– Đồng đồng cung tại Tý: được hưởng phúc, sống lâu, Nên lập nghiệp ở xa quê hương, bản quán. Họ hàng qúy hiển, có danh giá, uy quyền tế thế.
– Đồng đồng cung tại Ngọ: giảm thọ. Phải ly tổ bôn ba mới mong được yên thân. Họ hàng càng ngày càng sa sút phiêu bạt.
– Nhật đồng cung: không được hưởng phúc dồi dào, nên hay gặp trở ngại trên đường đời.
Nên tập nghiệp ở nơi thật xa quê hương. Họ hàng khá giả, nhưng ly tán. Nếu sinh ban ngày, phải
luận đoán trong họ đàn ông, con trai hiển đạt, còn đàn bà con gái vất vả về chồng con, hay yểu tử.
Trái lại, nếu sinh ban đêm, phải luận đoán là trong họ đàn bà, con gái giàu có, sung sướng, còn đàn ông con trai cùng khổ phiêu bạt.
– Cơ đồng cung tại Thân: được hưởng phúc, sống lâu. Trong họ có người giàu sang, nhưng đàn bà con gái thường khá giả hơn là đàn ông con trai.
– Cơ cung tại Dần: không được hưởng phúc dồi dào nên suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng bình thường, nhưng đàn bà con gái hay trắc trở vê chồng con, lại có người phong tình hoa nguyệt.
1.9. Tham Lang
– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: được hưởng phúc. Về già rất sung sướng. Trong họ nhiều người giàu có, nhưng thường lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương.
– Đơn thủ tại Dần, Thân: Không được hưởng phúc dồi dào, nhưng cũng sống lâu. Họ hàng bình thường, có nhiều người lập thân bằng võ nghiệp.
– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: bạc phúc nên giảm thọ. Phải lập nghiệp ở xa quê hương, phải sớm xa gia đình mới mong được yên thân. Họ hàng ly tán, càng ngày càng sa sút, lại có nhiều người rất dâm đãng
– Tử đồng cung: suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng, giảm thọ vì bạc phúc. Họ hàng ly tán, người nào khá giả lại chết sớm.
– Liêm đồng cung: giảm thọ, khó tránh được tai ương, họa hại. Trong họ có nhiều người bần hàn hay mắc tù tội, thường phải bạt quán xiêu cư.
– Vũ đồng cung: được hưởng phúc sống lâu. Về già, lại càng xứng ý toại lòng. Trong họ thường có người giàu sang hay hiển đạt về võ nghiệp.
1.10. Cự Môn
– Đơn thủ lại Hợi, Tý, Ngọ: được hưởng phúc, sống lâu, về già rất sung sướng. Họ hàng giàu có qúy hiển.
– Đơn thủ tại Tỵ, Thìn, Tuất: giảm thọ. Suốt đời lao tâm khổ tứ chẳng được xứng ý toại lòng,
lại hay mắc tai nạn khẩu thiệt, kiện cáo. Phải sớm xa gia đình mới mong được yên thân. Trong họ
thường có sự tranh chấp, nhiều người phiêu bạt giang hồ, nếu không, cũng khốn cùng, mắc hình
ngục, hay yểu tử.
– Tọa thủ tại Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ: được hưởng phúc, sống lâu và sung sướng. Họ hàng qúy hiển, giàu sang, có danh giá và uy quyền tế thế.
– Tọa thủ tại Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý: bạc phúc nên tuổi thọ bị chiết giảm. Suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Nên ly tổ hay ở xa gia đình. Họ hàng càng ngày càng sa sút ly tán, có nhiều người gian quyệt nhưng bần cùng, có người phiêu bạt giang hồ, lại có người mang ác tật hay mắc tai nạn chết một cách thê thảm
– Đồng đồng cung: giảm thọ, suốt đời vui ít buồn nhiều, hay mắc tai nạn, khẩu thiệt, kiện
cáo. Phải ly tổ, xa gia đình mới mong được yên thân. Họ hàng ly tán, thường tranh chấp lẫn nhau.
– Cơ đồng cung: tuy được hưởng phục, nhưng lúc thiếu thời chẳng được xứng ý toại lòng. Về già hay gặp may mắn. Họ hàng khá giả.
1.11. Thiên Tướng
– Đơn thủ tại Tỵ, Hợi, Sửu, Mủi: được hưởng phúc, suốt đời bay gặp may mắn. Trong họ có nhiều người qúy hiển, giàu sang.
– Đơn thủ tại Mão, Dậu: không được hưởng phúc dồi dào, nên lúc thiếu thời chẳng được
xứng ý toại lòng. Về già hay gặp may mắn. Họ hàng càng ngày càng khá giả.
– Tử đồng cung: suốt đời được xứng ý toại lòng, sống lâu và hưởng phúc. Họ hàng nhiều người giàu sang.
– Liêm đồng cung: được hưởng phúc. Họ hàng khá giả nhưng hiếm người.
– Vũ đồng cung: phúc thọ song toàn. Suốt đời hay gặp may mắn. Họ hàng qúy hiển giàu sang.
1.12. Thiên Lương
– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: được hưởng phúc, thanh nhàn, sung sướng tránh được nhiều tai họa và sống lâu. Trong họ có nhiều người qúy hiến, có danh tiếng lừng lẫy.
– Đơn thủ tại Sửu, Mùi: được hưởng phúc, sống lâu. Họ hàng bình thường.
– Đớn thủ tại Tỵ, Hợi: giảm thọ, khó tránh được tai họa. thường phải sớm xa gia đình, nay
đây mai đó, hay thay đổi công việc và chí hướng. Họ hàng càng ngày càng sa sút ly tán, đàn ông
con trai có nhiều người chơi bời, du đãng, đàn bà con gái cũng có nhiều người dâm dật, hay trắc trở về chồng con.
– Đồng đồng cung: suốt đời thanh nhàn, được hưởng phúc sống lâu. Trong họ có nhiều người qúy hiến, giàu sang và thường có thần nhân giáng hạ.
– Tọa thủ tại Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ: được hưởng phúc, sống lâu và sung sướng. Họ hàng qúy hiển, giàu sang, có danh giá và uy quyền tế thế.
– Tọa thủ tại Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý: bạc phúc nên tuổi thọ bị chiết giảm. Suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Nên ly tổ hay ở xa gia đình. Họ hàng càng ngày càng sa sút ly tán, có nhiều người gian quyệt nhưng bần cùng, có người phiêu bạt giang hồ, lại có người mang ác tật hay mắc tai nạn chết một cách thê thảm
– Cơ đồng cung: sống lâu, thanh nhàn, sung sướng. Họ hàng có người giàu sang, và thường có thần nhân giáng hạ.
1.13. Thất Sát
– Đơn thủ tại Dần, Thân: được hưởng phúc, nhưng nên lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương. Họ hàng khá giả, có danh giá và uy quyền tế thế, lại có nhiều người hiển đạt về võ nghiệp.
– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: không được hưởng phúc dồi dào, suốt đời may thường đi liền với rủi. Nên ly tổ có sớm xa gia đình mới mong được yên thân. Họ hàng khá giả, nhưng ly tán, có nhiều người hiển đạt về vỗ nghiệp.
– Đơn thủ tại Тhìn, Tuất: bạc phúc nên giảm thọ. Khó tránh được lai nạn vẻ đao thương, dễ mắc hình ngục. Phải ly tổ, ở xa gia đình, may ra mới được yên thân. Họ hàng càng ngày càng sa sút, nghèo khổ, ly tán, lại có nhiều người chết non.
– Tử đồng cung: phải ly tổ, bôn ba mới được hưởng phúc sống lâu. Trong họ có nhiều người giàu sang, hiển đạt về võ nghiệp, nhưng ở xa quê hương.
– Liêm đồng cung: giảm thọ, hay gặp nguy hiểm, phải xa quê hương mới mong được an toàn. Trong họ có nhiều người chết non một cách thê thảm. Nếu không, cũng phải mang tàn tật, ác bệnh, hay mắc tù tội, khốn cùng.
– Vũ đồng cung: giảm thọ vì bạc phúc. Suốt đời lao tâm khổ tứ, hay mắc tai họa. Xa quê hương, xa gia đình cũng chẳng được yên thân. Họ hàng sa sút ly tán, thường có người chết non, mang ác tật hay bần khổ.
1.14. Phá Quân
– Họ hàng ly tán, thường lập nghiệp ở xa quê hương.
– Đơn thủ tại Tý, Ngọ: được hưởng phúc, sống lâu, nhưng nên lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, Họ hàng khá giả. Tuy vậy ngành trưởng bao giờ cũng phiêu bạt, lụn bại.
– Đơn thủ tại Thìn, Tuất: không được hưởng phúc dồi dào. Phải ly tán, sớm xa gia đình, mới mong được yên thân. Trong họ có người qúy hiển.
– Đơn thủ tại Dần, Thân: bạc phúc nên giảm thọ. Khó tránh được tai họa. Phải ly tổ, sớm xa gia đình, may ra mới được yên thân. Họ hàng càng ngày càng sa sút.
– Tử đồng cung: Lao tâm khổ tứ, chẳng được yên thân. Phải lìa bỏ quê hương mới khá giả và sống lâu. Họ hàng ly tán.
– Liêm đồng cung: vất vả lao khổ, phải xa quê hương mới sống lâu. Họ hàng ly tán.
– Vũ đồng cung: phải lập nghiệp ở xa quê hương, phải sớm xa gia đình mới mong được yên thân
hưởng phúc sống lâu. Họ hàng ly tán nhưng có người giỏi vế kỹ thuật, mỹ thuật hay kinh doanh buôn bán.
1.14. Kình, Đà
– Họ hàng ly tán.
– Sáng sủa tốt đẹp: suốt đời may thường đi liền với rủi, về già được an nhàn. Họ hàng trước ly tán, sau quần tụ, càng ngày càng khá giả.
– Mờ ám xâu xa: bạc phúc nên giảm thọ. Khó tránh được tai họa, thường phải lập nghiệp thật xa quê
hương, không mấy khi được xúng ý toại lòng. Trong họ có người tàn tật, chết non hoặc trộm cắp, du đãng.
1.16. Hỏa, Linh
– Giảm thọ.
– Sáng sủa tốt đẹp: suốt đời may thường đi liền với rủi. Trong họ có nhiều người qúy hiển, nhưng hay chết non.
– Mờ ám xâu xa: suốt đời lao tâm khổ tứ, không mấy khi được xứng ý toại lòng. Khó tránh được tai họa. Họ hàng càng ngày càng sa sút.
1.17. Không, Kiếp
– Sáng sủa tốt đẹp: bạc phúc, suốt đời mưu sự buổi đầu thường trắc trở, về sau mới được hành thông, đắc ý. Trong cái may có chứa dựng nhiều cái rủi. Họ hàng khá giả, nhưng ly tán.
– Mờ ám xấu xa: giảm thọ, khó tránh được tai họa. Phải lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, may ra mới được yên thân. Họ hàng càng ngày càng sa sút, ly tán.
1.18. Xương, Khúc
– Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sung sướng, vinh hiển và sống lâu. Trong họ có nhiều người đỗ đạt cao có danh giá.
– Nhiều sao mờ ám xấu xa: giảm thọ, khó tránh được tai họa. Phải sớm xa gia đình, như thế may ra mới được yên thân. Họ hàng tuy khá giả, có người đỗ đạt cao, nhưng ly tán. Những người có danh giá lại hay mang tàn tật, ác bệnh, nếu không cũng chết non.
1.19. Khôi, Việt
– Tăng tuổi thọ
– Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc vinh hiển và sống lâu. Trong họ có nhiều người đỗ đạt làm nên danh giá, lại thường có vĩ nhân hay thần đồng xuất hiện.
– Nhiều sao mờ ám xấu xa: trong cái may có chứa đựng nhiều cái rủi. Nếu có danh giá, tất khó tránh được tai họa. Họ hàng mỗi ngày một suy bại.
1.20. Tả, Hữu
– Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sống lâu. Suốt đời hay gặp may mắn. Càng ở xa quê hương lại càng khá giả. Họ hàng qúy hiển giàu sang, nhưng không ở gần nhau.
– Nhiều sao mờ ám xấu xa: bạc phúc nên giảm thọ. Khó tránh được tai họa. Phải lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, hay phải sớm xa gia đình, may ra mới được yên thân. Trong họ có người cùng khổ phiêu bạt, hoặc du đãng, bất lương, nếu không, cùng mang tàn tật, ác bệnh, hay mắc tai nạn mà chết một cách thê thảm. Họ hàng càng ngày càng ly tán, lụn bại.
1.21. Lộc Tồn
Tăng tuổi thọ, được hưởng phúc, trong họ hiếm người và thường có sự tranh chấp bất hòa. Họ hàng khá giả nhưng ly tán.
1.22. Hóa Lộc
Được hưởng phúc, khỏi phải lo lắng những lúc túng thiếu. Tránh được nhiều tai họa, họ hàng giàu có.
1.23. Hóa Quyền
Được hưởng phúc. Được nhiều người vị nể. Họ hàng qúy hiển, có danh giá, truyền từ đời này sang đời khác. Nhận định theo Thiên Khôi, Thiên Việt
1.24. Hóa Khoa
Được hưởng phúc sống lâu. Tránh được nhiều tai họa. Họ hàng khá giả, có người đỗ đạt cao.
1.25. Hóa Kỵ
Giảm thọ. Họ hàng ly tán, hay tranh chấp lẫn nhau.
1.26. Song Hao
Giảm thọ. Nên sớm xa gia đình, trong họ có nhiều người nghèo túng, phải đi biệt xứ.
1.27. Tang, Hổ
Giảm thọ. Họ hàng ly tán, những người khá giả lại chết sớm.
1.28. Khốc, Hư
Giảm thọ. Họ hàng hay oán trách lẫn nhau.
1.29. Thiên Mã
Tăng tuổi thọ. Càng ở xa quê hương lại càng khá giả. Trong họ có nhiều người hiển đạt, nhưng không ở gần nhau.
1.30. Thái Tuế
Không được hưởng phúc dồi dào, khó tránh được tai họa. Trong họ thiếu hòa khí, thường có sự tranh chấp lẫn nhau.
1.31. Long, Phượng
Được hưởng phúc. Trong họ có nhiều người khá giả.
1.32. Cô, Quả
– Trong họ hiếm người.
– Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc. Tránh được nhiều tai họa. Họ hàng khá giả.
– Nhiều sao mờ ám xấu xa: giảm thọ, khó tránh được tai họa. Họ hàng càng ngày càng lụn bại.
1.33. Đào, Hồng
– Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sống lâu. Suốt đời hay gặp may. Trong họ có
nhiều người qúy hiển giàu sang. Nhưng bao giờ đàn ba con gái cung khá giả hơn đàn ông con trai.
– Nhiều sao mờ ám xấu xa: bạc phúc nên giảm thọ. Khó tranh được tai họa. Họ hàng càng
ngày càng lụn bại, ly tán. Đàn bà con gái rất trắc trở về chồng con, lại có nhiều người dâm đãng.
1.34. Quang, Qúy
Được hưởng phúc. Suốt đời hay gặp may mắn. Họ hàng khá giả.
1.35. Quan, Phúc
Được hưởng phúc. Tránh được nhiều tai họa. Trong họ có nhiều người khá giả và nhân đức.
1.36. Tuần, Triệt án ngữ
– Lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương. Càng sớm xa gia đình lại càng khá giả. Họ hàng ly tán. Ngành , trưởng họ lụn bại.
– Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: giảm thọ, khó tránh được tai họa. Suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng càng ngày càng ly tán lụn bại.
– Nhiều sao mờ ám xấu xa: tăng thọ, tránh được nhiều tai họa. Mưu sự gay trắc trở buổi đầu, nhưng về sau lại hành thông toại ý. Họ hàng ngày càng khá giả.
1.37. Tử Vi, Sát tinh đồng cung
Giảm thọ, khó tránh được tai họa. Phải lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, may ra mới được yên thân. Họ hàng ly tán, có nhiều người chết bất đắc kỳ tử. Ngành trưởng họ suy bại
1.38. Vũ, Xương, Khúc, Khôi, Việt
Được hưởng phúc, sống lâu. Suốt đời gặp may mắn. Trong họ có nhiều người qúy hiển, lại thường có vĩ nhân hay anh hùng dân tộc xuất hiện.
1.39. Nhật sáng sủa, Riêu, Đà, Kỵ
Giảm thọ, mắt kém. Khó tránh được tai họa. Suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng ly tán, hay tranh chấp lẫn nhau. Những người qúy hiển lại hay gặp những chuyện chẳng lành.
1.40. Nhật mờ ám, Riêu, Đà, Kỵ
Giảm thọ, mắt kém. Khó tránh được tai họa. Suốt đời bất đắc chí. Họ hàng ly tán, hay tranh chấp lẫn nhau. Những người qúy hiến lại hay gặp những sự chẳng lành. Đàn bà con gái trong họ thường phải buồn phiền vì chồng con.
1.41. Nguyệt sáng sủa, Riêu, Đà, Kỵ
Giảm thọ, mắt kém. Khó tránh được tai họa. Suốt đời bất đắc chí. Họ hàng ly tán, hay tranh chấp lẫn nhau. Những người qúy hiến lại hay gặp những sự chẳng lành. Đàn bà con gái trong họ thường phải buồn phiền vì chồng con.
1.42. Nguyệt mờ ám, Riêu, Đà, Kỵ
Giảm thọ, mắt kém rất đáng lo ngại. Tai họa đầy rẫy không kể xiết được. Họ hàng càng
ngày càng ly tán, suy bại. Đàn bà con gái trong họ, nếu không vất vả về chồng con, cũng chết sớm.
1.43. Nhật, Nguyệt, Kỵ đồng cung Sửu, Mùi
Được hưởng phúc sống lâu. Suốt đời gặp may mắn. Càng ở xa quê hương lại càng khá giả. Trong họ có nhiều người qúy hiến, nhưng thường bất hòa, không ở gần nhau. Tổ tiên xa đời cũng đã có danh giá và tiếng tăm lưu lại đến đời nay.
1.44. Phủ, Tam Không đồng cung
Bạc phúc nên giảm thọ. Khó tránh được tai họa. Phải lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, hay phải sớm xa gia đình may ra mới được yên thân. Họ hàng càng ngày càng ly tán, suy bại. Ngành trưởng họ phiêu bạt cùng khổ.
1.45. Tham, Vũ, Hỏa (hay Linh) đồng cung Sửu, Mùi.
Được hưởng phúc, tăng thêm tuổi thọ. Suốt đời hay gặp may mắn. Họ hàng khá giả, nhiều người giàu có qúy hiến.
1.46. Cự, Kỵ đồng cung
Giảm thọ. Khó tránh được tai họa. Suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng bất hòa ly tán và càng ngày càng suy bại. Lại có người mắc hình ngục, hay chết một cách thê thảm.
1.47. Cự, Hỏa đồng cung
Giảm thọ, tai họa đầy rẫy. Họ hàng bất hòa ly tán và càng ngày càng suy bại. Nhà thờ họ đã có lần bị cháy.
1.48. Sát, Kình đồng cung
Giảm thọ. Khó tránh được tai hoa. Trong họ có nhiều người chết bất đắc kỳ tử.
1.49. Kình, Đà, Không, Kiếp
Giảm thọ. Khó tránh được những sự chẳng lành. Suốt đời lao tâm khổ tứ. Họ hàng ly tán, lại
có nhiều người mang tàn tật hay ác bệnh. Nếu không cũng là hạng du đãng, cùng khổ và chết non.
1.50. Kình, Đà, Hỏa
Bạc phúc nên giảm thọ. Tai họa đẫy rẫy. Họ hàng ly tán càng ngày càng suy bại, lại có nhiều
người cùng khổ, du đãng, nếu không cũng điên cuồng, hay mang tàn tật, ác bệnh, hay chết non.
1.51. Hỏa (hay Linh), Tang đồng cung
Giảm thọ. Khó tránh được tai họa. Họ hàng ly tán. Những người khá giả lại hay chết non. Nhà thờ họ đả có lần bị cháy.
1.52. Kỵ Kình (hay Đà) đồng cung
Bạc phúc nên suốt đời lao tâm khổ tứ may ít rủi nhiều. Họ hàng hay tranh chấp lẫn nhau và càng ngày càng sa sút lại có nhiều người là hạng du đãng trộm cướp.
1.53. Kỵ, Không, Kiếp đồng cung
Giảm thọ. Suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng ly tán, càng ngày càng suy bại, lại có nhiều người bất lương.
1.54. Kỵ, Bệnh, Phù, Hình
Giảm thọ. Khó tránh được tai họa. Đau ốm lâu khỏi. Trong họ có nhiều người mang ác tật, ác bệnh (điên, lao, hủi), nếu không, cùng nghèo hèn hay chết non.
1.55. Cô (hay Qủa), Thiên Quan (hay Thiên Phúc) đồng cung
Suốt đời hay gặp may mắn, tránh được nhiều tai họa, vì luôn luôn có thần linh hộ trì. Trong họ có phúc thần.
1.56. Cô (hay Qủa), Quang (hay Qúy) đồng cung
Suốt đời hay gặp may mắn, tránh được nhiều tai họa, vì luôn luôn có thần linh hộ trì. Trong họ có phúc thần.
1.57. Cô (hay Qủa), Hồng (hay Đào) đồng cung
Có bà tổ linh thiêng hộ trì. Trong họ, đàn bà con gái thường trắc trở về chồng con, nếu không cũng yểu tử.
1.58. Đào, Hồng, Binh, Tướng
Trong họ có nhiều con gái bất chính.
1.59. Đào, Hồng, Binh, Tướng, Dưỡng, Thai
Trong họ có nhiều con gái chửa hoang, hay bỏ nhà theo trai.
1.60. Riêu (hay Tử), nhiều sao thuộc Thủy
Giảm thọ. Phải lìa bỏ quê hương, đi lập nghiệp ở nơi thật xa xôi. Họ hàng càng nghèo khổ ly tán, lại có nhiều người mang ác bệnh ác tật, nếu không cũng yểu tử. Đàn bà con gái trong họ thường trắc trở về đường chồng con.
1.61. Vô Chính diệu
– Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
– Nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu có Tuần, Triệt án ngữ, hay có Tam Không hội hợp, phải luận đoán là được hưởng phúc sống lâu. Trái lại, nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu không có Tuần, Triệt án ngữ, hay không có Tam Không hội hợp, phải luận đoán là kém phúc (dù có sự hội hợp của nhiều sao sáng sủa tốt đẹp cũng thế). Nên chú ý nhận định những trường hợp đặc biệt sau đây:
+ Nhật, Nguyệt chiếu hư không: cung Phúc Đức vô Chính diệu có Nhật, Nguyệt sáng sủa tốt đẹp hội chiếu được hưởng phúc sống lâu, tránh được nhiều tai họa. Họ hàng khá giả, có nhiều người qúy hiển, giàu sang. Tổ tiên xa đời cũng đã có danh giá tiếng tăm còn lưu lại đến đời nay. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu lại có Tuần, Triệt án ngữ, hay có Tam Không hội hợp lại càng rực rỡ
+ Đà La độc thủ, cung Phúc Đức vô Chính diệu an tại Dần, Thân, có Đà La tọa thủ: được hưởng phúc, sống lâu. Suốt đời hay gặp may mắn. Họ hàng càng ngày càng khá giả, có nhiều người qúy hiển, văn võ toàn tài. Cũng trong trường hợp này, nếu Đà La gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ không được coi là Đà La độc thủ nữa.
2. Nhận định ảnh hưởng các sao tọa thủ tại cung Phúc Đức để luận đoán âm phần
Âm phần chi phối một phần lớn sự yểu thọ và phúc đức của một người cũng như sự tụ tán của cả một họ. Sau khi đã luận đoán phúc đức, cũng cần phải luận đoán âm phần để biết rõ ngôi mộ mà mình chịu ảnh hưởng.
2.1. Hình sắc và thế đất của âm phần
– Tử Vi: mộ tổ xa đời (thường là năm đời), thế đất to lớn gần núi đồi, linh khí từ phía tay trái triều lại
– Liêm Trinh: mộ chú, nếu lúc sinh ra đời chú đã khuất bóng hay là mộ ông chú, nếu chú
còn, ông chú đã mất. Đất khô khan, gồ ghề, nổi cao như hình người ngồi, lại có sắc đỏ hay vàng.
– Thiên Đồng: mộ tổ bốn đời, để nơi đất trũng, xung quanh có nước.
– Vũ Khúc: mộ tổ năm đời, đát cao trơ trọi, cỏ hình như quả chuông dựng đứng.
– Thái Dương: mộ cha, nếu lúc sinh ra đời cha đã khuất bóng hay là mộ ông nội nếu cha còn, ông đã mất hay là mộ cụ nội ông nếu cha ông còn, cụ đã mất. Đất bằng phẳng.
– Thiên Cơ: mộ ông nội, nếu lúc sinh ra đời ông đã khuất bóng hay là mộ cụ nội, nếu ông còn, cụ đã mất. Đất rất tốt nên nhiều cây có mọc rậm rạp.
– Thiên Phủ: mộ tổ xa đời (thường là năm đời), thế đất to lớn gần núi đồi, linh khí từ phía tay phải triều lại.
– Thái Âm: mộ mẹ, nếu lúc sinh ra đời, mẹ vừa khuất bóng hay là mộ bà nội, nếu mẹ còn, bà đã khuất hay là mộ cụ nội bà, nếu mẹ bà còn, cụ đã mất. Thế đất hơi cao, chạy dài và uốn cong như hình bán nguyệt.
– Tham Lang: mộ tổ xa đời (thường là sáu hay bảy đời). đất nổi cao như hình con chó ngồi, sắc đen như bùn có nhiều cây cỏ mọc rậm rạр.
– Cự Môn: mộ bác ruột, nếu lúc sinh ra đời, bác đã khuất bóng hay là mộ ông bác (bên nội) nếu bác còn, ông bác đã mất. Đất vuông vắn, thường ở gần đình sở hay lâu đài, đào sâu, thấy ở dưới có lớp đất màu vàng.
– Thiên Tướng: mộ tổ năm đời. Đất nổi cao và vuông vắn như hình cái ấn.
– Thiên Lương: mộ tổ bốn đời. Đất rời rạc, lẫn nhiều cát, có hình như cái thoi dệt vải, thường ở gần đường đi, lối lại.
– Thất Sát: mộ tổ năm đời. Đất khô, nóng, có sắc đỏ và có hình như thân cây dài nằm ngang.
– Phá Quân: mộ tổ bốn đời. Đất tan lở, không có hình thể nhất định.
– Kình Dương:
+ Sáng sủa tốt đẹp (tọa thủ tại Tứ Mộ): Hình đất giống như con voi qùy.
+ Mờ ám xấu xa (tọa thủ tại Tứ Sinh, Tứ Tuyệt): hình đất giống như mũi dùi, tháp bút hay cái răng nhọn.
– Đà La: đất lẫn cát, có hình cái răng hay hình mũi nhọn.
– Hỏa Tinh, Linh Tinh: đất nóng, có hình cái sào dài
– Địa Không, Địa Kiếp: đất khô nóng. Trong họ có nhiều mồ mả bị thất lạc, đã lâu ngày không tìm thấy.
– Văn Xương: đất rắn (cứng), có hình tròn.
– Văn Khúc: có dòng nước chảy lượn quanh mộ.
– Thiên Khôi: đất nổi cao, giống như cái mũ.
– Thiên Việt: hình dài giống như cái búa.
– Tả Phụ, Hữu Bật: thế đất cao đẹp, có hình giống như cạp chiếu nổi cao.
– Lộc Tồn: đất có hình giống như lưỡi thương.
– Hóa Lộc: đất có hình giống như lá cờ hay lưỡi thương. Đào sâu, sẽ thấy ở dưới có nhiều kim khí vụn vặt.
– Hóa Quyền: hình đất giống như cái yên ngựa. Nếu không phải như thế, tất ở gần mộ, có một bụi cây to cung giống nhu yên ngựa.
– Hóa Khoa: hình đất giống như cái bảng.
– Hóa Kỵ: đất úng thủy, lẫn bùn lầy. Mộ dễ ở chỗ trũng.
– Song Hao: đất khô, nóng và tan lở.
– Tang Môn: đất khô nóng.
– Bạch Hổ: đất có lẫn nhiều đá.
– Thiên Khốc, Thiên Hư: đất hư nát và tan lở. Trong mộ có mối, mọt hay chuột làm ổ.
– Thiên Mã: đất có hình giống như con ngựa.
– Thái Tuế: đất rắn, khô khan, nổi gò lên như hình sống trâu.
– Long Trì: gần mộ có ao hay giếng.
– Phượng Các: mộ để ở gần nơi có nhiều nhà cửa, lâu đài. Đất đỏ, có hình giống như cánh phượng.
– Đào Hoa: đất hình tròn và nổi cao như hình cái bát úp.
– Hồng Loan: đất có hình giống như cái cung hay cái mí mắt. Thường gọi là thế đất Nga mi.
– Thiên Hỷ: đất có lẫn nhiều bùn lầy, cát, hay phù sa.
– Thiên Hình: đất có hình giống như lưỡi đao, lẫn nhiều mành sành, mảnh chai và kim khí vụn vặt.
– Thiên Riêu: có dòng nước chảy xói vào lòng mộ.
– Quan, Phúc: mộ để ở gần đình, đền hay chùa.
– Ân Quang, Thiên Qúy: có ân nhân tìm đất đế giúp mộ mả.
– Thai Phụ: đất hình vuông giống như cái nón.
– Phong Cáo: đất hình vuông giống như cái chiếu.
– Hoa Cái: đất có hình giống như bông hoa nở, giống như cái lọng xòe hay cái bát úp.
– Tam Thai: đất hình tam tinh.
– Bát Tọa: thế đất giống như tám ngôi sao dàn bày rất cân đối.
– Thanh Long: mộ để ở gần sông ngòi. Đất có hình giống như người cầm gươm.
– Tướng Quân: đất có hình giống như áo giáp.
– Tấu Thư: mộ để ở chỗ thấp, trũng. Có thế đất như hình con rồng chầu một bên.
– Phi Liêm: mộ để ở gần núi hay đồi trơ trọi. Đất khô nóng và tan lở.
– Hỷ Thần: đất bằng phẳng và có lẫn nhiều cát.
– Bệnh Phù: đất có hình giống như cái đai. Có dòng nước ngầm chảy xói vào lòng mộ.
– Phục Binh: đất có hình giống như cái chiêng, hay có hình như người lính cầm gươm.
– Trường Sinh: đất úng thủy, сó dòng nước nhỏ chảy uốn lượn quanh mộ.
– Mộc Dục: mộ thường gần suối hay lạch nước nên đất ẩm ướt.
– Quan Đới: đất hình bán nguyệt.
– Suy: đất khô, trơ trụi, nổi gồ lên như hình sống trâu.
– Bệnh: đất ẩm ướt và uế tạp.
– Tử: có dòng nước nhỏ chảy lượn quanh mộ.
– Mộ: gần mộ có lạch nước.
– Thai: có dòng nước ngầm chảy vào trong mộ.
– Dưỡng: có dòng nước ở nơi thật xa chảy đến lượn quanh mộ.
– Tuần:
+ Chiếu: gần mộ có khoảng đất trơ trụi và rất rộng.
+ Án ngữ: mộ đế ở nơi đất hung và hoang vắng. Địa khí ở xa không thể đến được vì đã bị chắn.
+ Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: cát khí càng ngày càng tiêu hao, hung khí phát ra rất mạnh mẽ. Vậy cho nên họ hàng đời trước khá giả, đến đời này suy bại và ly tán.
+ Nhiều sao mờ ám xấu xa: cát khí càng ngày càng phát ra mạnh mẽ, hung khí tiêu hao dần dần. Vậy cho nên họ hàng đời trước ly tán, lụn bại, có nhiều người cùng khổ, hay mắc tai họa, chết non, đến đời nay khá giả, có nhiều người qúy hiển, giàu sang và sống lâu.
– Triệt
+ Chiếu: gần mộ có đường đi, ngõ hẻm, cầu cống hay hố vực.
+ Án ngữ: mộ để ở sát đường đi, ngõ hẻm, cầu cống hay hố vực. Địa khí ở xa đến, cát hóa hung, hung hóa cát.
+ Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: địa khí bị tỏa chiết vì đất bị đào bới, xẻ cắt, hay vì có sự xây cất ngăn chặn, cũng có thổ là mộ bị tan lở, hay thất lạc lâu ngày không tìm thấy. Cát khí càng ngày càng tiêu hao, hung khí phát ra rất mạnh mẽ. Vậy cho nên họ hàng đời trước khá giả, đến đời này suy bại và ly tán.
+ Nhiều sao mờ ám xấu xa: địa khí bị tỏa chiết vì đất bị đào bới, xẻ cắt, hay vì có sự xây cất ngăn chặn, cũng có thổ là mộ bị tan lở, hay thất lạc lâu ngày không tìm thấy. Nhưng may mắn cát khí càng ngày càng phát ra mạnh mẽ, kết hợp rất tốt đẹp, hung khí tiêu hao dần dần. Vậy cho nên họ hàng đời trước ly tán, suy bại, đến đời nay khá giả, có nhiều người qúy hiển, giàu sang.
2.2. Quy định ảnh hưởng của âm phần
– Cung Phúc Đức có một Chính diệu tọa thủ: xem Chính diệu tượng trưng cho ngôi mộ nào, tất chịu ảnh hưởng của ngôi mộ đó.
– Cung Phúc Đức có hai Chính diệu tọa thủ đồng cung phải nhận định tùy theo trường hợp sau đây:
+ Hai Chính diệu cùng thuộc một hành: chịu ảnh hưởng của cả hai ngôi mộ để ở gần nhau, mà mỗi ngôi đã được tượng trưng bởi một Chính diệu.
Thí dụ: Cung Phúc Đức an tại Sửu, có Cự, Đồng tọa thủ đồng cung. Vì Cự, Đồng cùng thuộc Thủy, nên phải chịu ảnh hưởng của ngôi mộ bác hay ông bác, tượng trưng bởi Cự và ngôi mộ tổ bốn đời tượng trưng bởi Đồng đế ở gần nhau.
+ Hai Chính diệu không thuộc một hành:
* Một trong hai Chính diệu sinh được Bản Mệnh: chịu ảnh hưởng của ngôi mộ được tượng trưng bởi Chính diệu đó.
Thí dụ: Cung Phúc Đức an tại Dần, có Cự, Nhật tọa thủ đồng cung, Bản Mệnh thuộc Thổ. Nhật thuộc Hỏa, tượng trưng ngôi mộ ông nội hay cụ nội, sinh được Thổ Mệnh. Vậy Thổ Mệnh chịu ảnh hưởng của ngôi mộ ông nội hay cụ nội, được tượng trưng bởi Nhật. Còn Cự thuộc Thủy, tượng trưng ngôi mộ bác hay ông bác không sinh được Thổ Mệnh, nên được kể đến. Mặc dầu ngôi mộ bác hay ông bác, tượng trưng bởi Cự, để ở gần ngôi mộ ông nội hay cụ nội, tượng trưng bởi Nhật, cũng không có ảnh hưởng gì đối với Thổ Mệnh ở trên.
* Một trong hai Chính diệu không sinh được Bản Mệnh: Xem Bản Mệnh sinh được Chính diệu nào, tất chịu ảnh hưởng của ngôi mộ được tượng trưng bởi Chính diệu đó.
Thí dụ: Cung Phúc Đức an Tại Mão, có Cự, Cơ tọa thủ đồng cung, Bản Mệnh thuộc Kim. Cơ thuộc Thủy không sinh được Kim Mệnh. Còn Cự thuộc Mộc lại khắc Kim Mệnh. Ngược lại Kim Mệnh sinh được Cự thuộc Thủy, tượng trưng ngồi mộ bác hay ông bác. Vậy Kim Mệnh chịu ảnh hưởng của ngôi mộ bác hay ông bác, tượng trưng bởi Cự, và không chịu ảnh hưởng của ngôi mộ ông nội, tượng trưng bởi Cơ, mặc dầu hai ngôi mộ này để ở gần nhau.
* Một trong hai Chính diệu không sinh được Bản Mệnh, Bản Mệnh cũng không sinh được một trong hai Chính diệu. Xem Bản Mệnh hòa với Chính diệu nào, tất chịu ảnh hưởng của ngôi mộ được tượng trưng bởi Chính diệu đó.
Thí dụ: Cung Phúc Đức an tại Ngọ có Tướng, Liêm tọa thủ đồng cung, Bản Mệnh thuộc Thủy, Tướng thuộc Thủy, tượng trưng ngôi mộ chú hay ông chú. Liêm thuộc Hỏa, tượng trưng ngôi mộ tổ năm đời. Thủy Mệnh hòa với Tướng thuộc Thủy và khắc Liêm thuộc Hỏa. Vậy Thủy Mệnh chịu ảnh hưởng của ngôi mộ chú hay ông chú, tượng trưng bởi Tướng và không chịu ảnh hưởng của ngôi mộ tổ năm đời, tượng trưng bởi Liêm, mặc dầu hai ngôi mộ này để ở gần nhau.
– Cung Phúc Đức vô Chính diệu: coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
2.3. Vị trí của âm phần
– Cung Phức Đức: chính mộ.
– Cung đằng trước: tả (mặt trước)
– Cung đằng sau: hữu (mặt sau).
– Cung xung chiếu: tiền án.
– Hai cung hợp chiếu: một là Long (bên trái) một là Hổ (bên phải).
Thí dụ: Cung Phúc Đức an tại Dần. Vậy tại Dần là chính mộ, Mão: Tả, Sửu: Hữu, Thân: tiền án, Ngọ: Long, Tuất: Hổ.
Sau đã biết rõ vị trí của âm phần, nên kết hợp mọi nhận định về hình sắc và thế đất để luận đoán cho thật cẩn thận.
(Tử vi đẩu số tân biên – Vân Đằng Thái Thứ Lang)