Một hồi thấy đua nhau nói đến lá số có 4 Tí hay 4 Sửu, 4 Dần, 4 Ngọ… như có ý cho là một lá số phi thường tốt đẹp.Thật ra chả hiểu cái tốt đẹp nó ở chỗ nào, thiển nghĩ có lẽ cho là một cây làm thành rừng, 4 cái hợp lại thành một đoàn như góp gió thành bão có một sức làm nên những việc đáng nể.
Theo lý học đông phương phải hợp căn bản là âm dương, ngũ hành. Nếu giảng như trên thật là không nguyên tắc. Thỉnh thoảng có một vài trường hợp may mà đẹp như 3 tuổi Thân Tí Thìn có 4 Thân, 4Tí, 4 Thìn thì Mệnh Thân được an vị tại tam hợp Thái Tuế:
- Tuổi Tí là tháng 11 giờ Tí thì Mệnh lập ngay ở Tí (Thái Tuế)
- Tuổi Thân tháng Thân là tháng 7 giờ Thân thì Mệnh ở Tí (Quan Phù)
- Tuổi Thìn tháng Thìn là tháng 3 giờ Thìn thì Mệnh cũng ở Tí (Bạch hổ)
- 3 Tuổi Tỵ Dậu Sửu có 4 Tỵ, 4 Dậu, 4 Sửu thì luôn luôn có Mệnh ở thế thua thiệt bạc đãi (Trực phù, Thiếu âm và Long Đức)
- 3 tuổi Dần Ngọ Tuất có 4 Dần, 4 Ngọ, 4 Tuất thì Mệnh bị đặt ở thế bất mãn (Tuế Phá, Tang Môn, Điếu Khách).
- 3 tuổi Hợi Mão Mùi có 4 Hợi, 4 Mão, 4 Mùi thì Mệnh được đặt ở thế trội, khôn khéo xử thế đời chỉ là giấc mộng sắc sắc không không (Thiếu Dương, Tử phủ, Phúc đức, Thiên Không).
Biết rằng người đời ở tam hợp Thái Tuế là ngôi vị đã dành sẵn có bộ Long Phượng Hổ Cái thì cái trách nhiệm của người đó phái thế nào cho xứng đáng. Những người ở trong vị trí Tuế Phá Tang Môn Điếu khách, số đặt cho một hy vọng là thường xuyên có Thiên Mã (nghị lực) và Thiên Mã này có giúp ích cho đương số được tới mức độ nào hay không lại là phần tuổi của mình đem so với hành nào nơi Thiên Mã đóng. Những người ở vị trí Thiếu Dương, Tử Phủ, Phúc Đức là ở chỗ ngã ba đường, biết đi thì gặp Tứ Đức, lầm lỗi thì thấy Thiên Không. Những người ở vị trí Thiếu âm, Long Đức, Trực phù tuy là bị đời bạc đãi, tỉnh ngộ ra vẫn thấy tươi thắm vì Hồng Loan tô điểm hay đền bù bằng Lộc tồn nhỏ giọt.
Về phương diện ngũ hành thì năm tháng ngày giờ mới chỉ là 4 còn thiếu một. Nếu muốn cho đủ cả 5 thì phải tính thêm một yếu tố hoặc bằng “ khắc sanh” hay tháng của mẹ thụ thai, nghĩa là người bắt đầu thành thai trong bụng mẹ theo giờ thời đạo mà tính theo khắc.
Thấy rất khó mà canh trúng nổi khắc, ngày giờ còn lấy sai bê bối, vậy chỉ còn cách cách lấy tháng thụ thai của bà mẹ chứ ngày cũng khó biết. Cứ trung bình tháng thụ thai là tháng trước 9 tháng ra đời với năm tháng ngày giờ đã sắp xếp theo định mệnh thêm vào cho đủ 5 yếu tố. Kinh nghiệm riêng đã thấy có phần trúng vì nó là đại lược của đời mình.
a/- Hành của tháng thụ thai sanh cho hành năm, hành năm sanh cho hành tháng, hành tháng sanh cho hành ngày, hành ngày sanh cho hành giờ, thí dụ:
Tháng thụ thai là tháng Kỷ Dậu = Thổ
Năm sanh là năm Canh Tuất = Kim
Tháng sanh là tháng Bình Ngọ = Thuỷ
Ngày sanh là ngày Tân Mão = Mộc
Giờ sanh là giờ Mậu Tí = Hoả
Thổ sanh Kim
Kim sanh Thuỷ
Thuỷ sanh Mộc
Mộc sanh Hoả
Tất cả theo hệ thống tương sinh từ trên xuống dưới là truờng hợp gặp nhiều may mắn xuôi chiều.
b/- Hành khắc từ trên xuống dưới như hành của tháng thụ thai khắc hành năm sanh, năm khắc tháng, tháng khắc ngày, ngày khắc giờ là trường hợp cuộc đời gặp nhiều gián đoạn.
c/ -Hành bị khắc người như tháng thụ thai bị năm khắc, năm bị tháng khắc, tháng bị ngày khắc, ngày bị giờ khắc, là cuộc đời gặp nhiều trái ý.
d/- Đủ ngũ hành nhưng không sanh hay khắc nối nhau theo một chiều hệ thống từ trên xuống dưới, chỗ thì sinh chỗ thì khắc như tháng thụ thai sanh cho năm, năm lại khắc tháng, tháng sinh cho ngày, ngày khắc giờ, cuộc đời thăng trầm đáng buồn phiền.
Bốn trường hợp nêu trên có đủ ngũ hành. Những cá nhân này không phải là hạng thiếu tư cách và đáng trọng dầu ở hoàn cảnh nào.
Còn những tình trạng thừa hành này thiếu hành kia như 3 Kim 2 Thuỷ hay 2 Mộc Hoả 1 Thổ hay 4 Thổ 1 Kim thì nhận xét theo tánh nghĩa ngũ thường như:
Mộc = Thiện tâm (nhân)
Thổ = Thành thực (tín)
Kim = Minh bạch (nghĩa)
Thuỷ = nghiêm chỉnh (trí)
- Người 3 Kim 2 Thuỷ là người thừa minh bạch và nghiêm chỉnh (nghĩa và trí)
- Người 2 Mộc, 2 Hoả, 1 Thổ là người dư thiện tâm và tỏ tường (nhân lễ)
- Người 4 Thổ 1 Kim là người quá ử thành thực (tín)
Phần sao hẳn ai cũng công nhận Tử Vi là đáng quí tượng trưng cho ngôi vị thụ hưởng xứng đáng với nhũng tính cách nhân hậu phúc đức như 12 ngôi vị nhận thấy:
Tử vi ở Ngọ = Đế ngự ngai vàng thịnh trị có Liêm Phủ ở Tuất và Vũ Tướng ở Dần là văn võ tríêu khánh hội (có tánh cách điều hoà vì Ngọ bị Tí khắc nhập)
Tử vi ở Tỵ = Đế Tuần du có Thất Sát hộ giá phải dùng Liêm Phá ở Dậu càn quét và Tham Vũ ở Sửu kiến thiết.
Tử vi ở Thìn = Đế xuất chinh có Thiên Tướng phò chiến đắc Liêm Trinh ở Thân và Vũ Phủ ở Tí quản trị đất nước hữu hiệu.
Tử vi ở Mão = Đế yếm thế vì Tham Lang uy hiếp (tất cả bộ Sát Phá Tham) hãm phản vật.
Tử vi ở Dần = Đế được Thừa tướng bình thư (Thiên Phủ) được Liêm Tướng ở Ngọ và Vũ Khúc ở Tuất điều khiển việc nước hùng mạnh.
Tử vi ở Sửu = Đế bị vây hãm (Phá Quân phản) tất cả bộ Sát Phá Tham hãm trấn giữ.
Tử vi ở Tí = Bá ngự đại triều, rất hùng mạnh nhờ Liêm Phủ ở Thìn Tuất và Vũ Tướng ở Thân, uy hiếp mọi đối phương (Thân Tí Thìn khắc xuất Dần Ngọ Tuất).
Tử vi ở Hợi = Bá xuất chinh phải khó khăn vì Liêm Phá ở Mão không mấy mạnh.
Tử vi ở Tuất = Bá chiến đấu nhờ Liêm Trinh ở Dần và Vũ Phủ ở Ngọ xuất sắc đất nước phồn thịnh
Tử vi ở Dậu = Bá yếu thế (Tham Lang ở đây không đủ tư thế chuyên quyền) chỉ là dối trên gạt dưới.
Tử vi ở Mùi = Bá bị vây hãm bởi Phá Quân phản, chỉ trông cậy vào Thiên Tướng ở Sửu khắc phục
Tử vi ở Thân = Bá được quân sư trình thư, thế nước được sáng rạng nhờ Liêm Tướng ở Tí, Vũ khúc ở Thìn và Thái dương ở Tỵ sinh nhập.
Trong 12 vị trí điều làm cho ta thấy là tư cách của ThiênTướng rất cao đẹp, dầu ở tình thế nào cũng vẫn là người khẳng khái, bất chấp cả sát tinh thâm nhập, vì ở vào vị trí nào Thiên Tướng luôn luôn chống lại Phá Quân (tư cách nghĩa hiệp). Còn Thất Sát thường xuyên dằn mặt Thiên Phủ (cũng như Thiên Tướng xung chiếu Phá Quân) đòi hỏi, trái nghịch với Thiên phủ là người khoan thai, ôn hoà, xét hành động bằng mọi lý do rồi mới kết luận. Tuy vậy cũng có trường hợp Thất Sát phục tài Thiên Phủ là vị trí Thất Sát ngưỡng đẩu (ý nghĩa mà thôi, vị trí vẫn xung chiếu).
Còn ngôi vị thứ 3 không giống Thiên Tướng thường xuyên xung chiếu Phá Quân hay Thất Sát luôn luôn nghịch chống Thiên Phủ (bất kể ở đâu Thiên Tướng cũng xung Phá Quân và Thất Sát xung Thiên Phủ) có một tư cách sống bằng lý tưởng riêng biệt nhân nghĩa phúc hậu cũng không kém Tử vi. Nếu đắc chí làm thầy muôn thuở, bằng không cũng thành tao nhân mặc khách với non cao rừng rậm, biển cả sông dài. Phú với người này là cơm áo sao cho có miễn để sống. Quí là não óc cao cả bầu trời cùng Nhật Nguyệt soi tỏ (tuỳ theo đắc địa hay hãm địa với cả bộ Nhật Nguyệt). Đó là sao Thiên Lương ở trong 12 chỗ đứng địa bàn, chỗ nào cũng có nhật hay nguyệt bồi đắp như:
a/- Khổng Khâu có Thiên Lương ở Tí, Thái Dương ở Ngọ bị Triệt (tuổi Canh) Thái âm ở Thân ngộ Kỵ
b/- Khổng Minh đắc Thái Dương, Thiên Lương ở Mão
Một người vì ân tình luỵ của Lưu Bị mà buộc lòng làm quân sư, một nguời không đắc thời cũng thành vạn thế sư.
Có phải Thiên Lương là lương tâm của trời đất.
Cái đẹp dứt khoát của số vẫn là vị trí não ở trong tam hợp Thái Tuế mà Mệnh Thân đã được an bài.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)