Xưa kia, những bậc được gọi là Minh quân, Thánh chúa thường tự khiêm nhượng bằng tiếng xưng hô Cô hay Quả nhân dụng ý cho những gì cần đem lại hạnh phúc hoàn hảo cho mọi người. Hai chữ Cô Quả có nghĩa là đơn chiếc (cô) mỏng manh (quả) đứng trong địa bàn Tử vi chỉ ở 8 vị trí Tứ sinh (cô) và tứ mộ (quả) có tính cách nêu rõ ràng tình cảnh của ba hạng Tuế Phá, Thiếu Âm và Thiếu Dương. Còn đối với Thái Tuế không bao giờ Cô Quả có chỗ đứng trong tam hợp, Tại sao vậy?
Biết rằng người Thái Tuế là người sinh ra như có trách vụ làm việc cho xã hội tuỳ hoàn cảnh nhiều hay ít, luôn luôn được lòng chúng nhân ái mộ với chiếu lọng (hoa cái) che danh hiệu Long Phượng nhất là những tuổi tứ Mộ đắc kim mệnh. Trái với ba hạng còn lại ngoại trừ Thiếu Dương tuổi tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) không muốn phiền luỵ ai, thiên phú thông minh hơn người nếu sớm tỉnh giác (Hồng Loan, Thiên Không – sắc sắc không không) thì Cô Quả cũng thành không, còn được kính mến nữa là khác.
Người Thiếu âm với tuổi tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) vì lòng tự hào quá cao thường lâm vào thế thất nhân tâm, chỉ còn đường rẽ Long đức làm niềm an ủi duy nhất.
Người Tuế Phá với tuổi tứ Chính (Tí Ngọ Mão Dậu) tính tình quá cương trực thường xuyên bị cô thế, nghĩ rằng nghị lực (Thiên mã) có thừa cũng như ai trong thế hăng hái (cùng thế âm dương với Thái Tuế) mỗi hành động thường không mang lại kết quả đắc ý nên tuyệt đối bị khép vào cảnh mất tin tưởng thế nhân.
Thông thường cứ nói Cô Quả và Đẩu quân có những thành tích khắc nghiệt và vị kỷ giống nhau, thật ra nên thận trọng phân cách sự dị biệt của Cô (nam) Quả (nữ) không có gì sánh được Đẩu quân.
Cô Quả luôn ở trong hoàn cảnh bất đắc ý đến có nhiều hành động phải khắc nghiệt bị ghép vào lý vị kỷ. Đẩu quân khác hẳn, lý chành nghĩa sảng tỏ là hành tính của Thái Tuế (nguyệt nghịch, thời thuận) với danh hiệu chữ “Quân” phải là khẳng khái bất khuất nên có tính cách nghiêm nghị.
Chữ “Đẩu” còn có nghĩa đo lường bao gồm ý cẩn thận đúng mức nên được ghi danh “ Nguyệt tướng “ vị chỉ huy công việc hàng năm khí phách hào hùng chính diện.
Hai bản số sau đây cho thấy đâu là khác biệt
a) Đinh Mão ngày 11 tháng 5 giờ Sửu
b) Mậu Ngọ sanh ngày 9 tháng 4 giờ Mùi
a) Tuổi Đinh Mão có Cô Quả nhập mệnh ở Tỵ vẫn được mọi sự trọng vọng kính phục vì được Phá Toái như đã bào chế sao tẩm trở thành một thứ hung tinh ngộ chế, bồi đắp thêm “THÂN“ lại ở tam hợp Thái Tuế mặc dầu đời vẫn trôi nổi như chiếc lá giữa dòng (mệnh ở vị trí Tang môn) nhưng vẫn một lòng son dạ sắt trung kiên với lẽ phải (Thân ở vị trí Quan Phù).
b) Tuổi Mậu Ngọ hoả mệnh vô chính diệu ở vị trí Quan Phù được Đẩu quân độc thủ, một thế nhân đủ tư cách tối thượng bất khuất..Mối hận ngàn năm khó quên vì “THÂN” ở Tuế Phá bị Cô Quả ngăn chặn khiến cuộc đời vẫn như lẻ loi không ai biết đến với bao công phu khó nhọc hàng ngày lo xây đắp trên con đường tinh thần những gì Kỳ khu trở nên quí giá.
Căn cứ những cơ bản nơi 2 lá số cho thấy giữa Mệnh và Thân chia nhau những phần quan trọng.
Phải chăng Thân là chính sự của việc mà Mệnh đã phác họa dự thảo trình ra.
Trên phương diện tình cảm những trường hợp tuổi thường bị bỏ rơi hay không biết đến như sau:
– Tuổi Tứ Sinh bị Mệnh hay Thân đóng ở vị trí tam hợp Thiếu âm
– Tuổi Tứ Chính bị Mệnh hay Thân đóng vở vị trí tam hợp Tuế Phá
– Tuổi Tứ Mộ bị Mệnh hay Thân đóng ở vị trí tam hợp Thiếu Dương
Người tam hợp Thái Tuế cả 12 tuổi hàng chi không bao giờ bị ảnh hưởng. Riêng hai tuổi Can là Nhâm Quí mỗi khi hạn hành gặp Cô Quả thường bị khắc chế khó khăn, trường hợp tuổi nạp âm là thuỷ mệnh cũng vậy.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)