Bằng 4 yếu tố năm tháng ngày giờ lập nên lá số không đủ cặn kẽ cho một sự thể riêng biệt của cá nhân. Thấy số lượng quá ít chỉ trên nửa triệu lá số khác nhau nên sự trùng điệp thường đánh một dấu hỏi lớn cho người muốn biết lá số. Cứ trung bình trên khoảng đất ½ triệu cây số vuông, có 50 triệu dân tức là với 700 cây số bề dài thời tiết phong thổ không thể khác biệt nhau cho lắm có thể kết quả trung bình 100 người có lá số giống nhau, tối thiểu cũng phải từ 10 đến 20 số. Không lẽ một quốc gia như thế có đến 15 ông thủ tướng (vì số giống nhau).
Cái kẽ hở đó là hành động riêng biệt của mỗi người khác nhau nên hoạ phước phải tăng giảm theo số lượng nhiều hay ít. Nhưng khi lên bổng đắc chí hay xuống thấp buồn thảm thời gian phải giống nhau vì cùng thời gian hưng bại (đại tiểu vận).
Số đã trùng điệp như thế, có e ngại 4 yếu tố năm tháng ngày giờ lại trật sai nữa thật rất khó cho người có số muốn hiểu biết cuộc đời. Năm tháng là 2 khoảng có thể chính xác. Riêng ngày chỉ sợ thời gian giữa Hợi và Tí vì Hợi thuộc ngày hôm trước, Tí là khởi điểm ngày hôm sau. Còn giờ là một đề tài phức tạp. Xưa kia tổ tiên ta trước vấn đề nan giải trong lúc các bà mẹ sinh con không phân biệt được giờ trên hay dưới. Các cụ thường bốc đũa lên đếm nếu số chẵn là âm, số lẻ là dương (luật cơ ngẫu) để quyết định giờ nào vào lúc đó. Thật là nan giải.
Bây giờ có đồng hồ, người lấy số cứ mặc nhiên tính 2 tiếng đồng hồ là một giờ của số, cứ thế mà đi không chút ngập ngừng. Xin thưa không phải dễ dàng như thế. Giờ đồng hồ do một bộ máy cân đều nhau 24 giờ thời gian. Còn giờ của số là thời đạo theo thời tiết như Xuân và Thu thời gian ngày và đêm gần như bằng nhau, còn Hạ và Đông có lúc ngày dài hơn đêm, lại có khi đêm dài hơn ngày. Cái gì đêm phải trả về cho âm, cái gì ngày phải tính theo dương. Luật âm dương luôn luôn đặt trước mọi vấn đề nan giải của lý học, như mùa hạ từ giờ Dần đến giờ Mùi có thể dài đến hơn 13 giờ. Từ Thân đến Sửu chỉ còn trên 10 tiếng mà thôi. Trái lại mùa Đông khoảng thời gian về đêm từ Thân đến Sửu phải dài hơn thời gian của dương từ Dần đến Mùi, tức là giờ phải theo 24 tiết khí xê dịch trong vòng 15 ngày, mà cũng không phải có ngày giờ nhất định theo tiết đó bắt đầu, còn theo khí trời thay đổi đột ngột sớm hay chậm một hai ngày. Vấn đề rắc rối như vậy phải làm sao giải quyết ? Cho nên giờ sinh là một điều kiện rất khó và cũng là phần quan trọng trong lá số. Số sai giờ là số của người đâu phải của mình mình cứ khư khư chấp nhận mà thấy đời sống không như số đã xắp xếp, chẳng thà không có số còn hơn, đỡ bận tâm vì số.
Vậy phải làm sao với đề tài lẫn lộn khó giải quyết giờ sinh như thế. Thưa rằng nếu có lầm lẫn chỉ có thể giờ trên với giờ dưới, không thể xa cách đến 3 -4 giờ vì thời tiết thay đổi chỉ trong một giờ sai biệt có nghĩa là chỉ giữa 2 giờ dính liền nhau như Dần với Mão hay Mão với Thìn, không thể lầm lẫn Mão với Ngọ hoặc Tí.
Đây là một nguyên lý có tính cách định luật chứng minh dựa vào sự việc: tính nết và liên hệ với đại gia đình (cha mẹ anh em) và tiểu gia đình (chồng vợ) (1). Điều kiện tiên quyết căn bản là Mệnh đặt ở cung dương hay âm, cung âm và dương có tính cách khác hẳn nhau, sao thêm vào chỉ là phụ thuộc trừ phần nào. Biết rằng những cung dương có tính cách được sinh nhập (nhị hợp) thì người ngồi đó phải là người chặt chẽ cẩn thận, trái lại cung âm là người phóng khoáng rộng rãi (sinh xuất).
Hai điều sau chỉ là phụ khoản bổ túc cho điều một tỏ bầy tình trạng giữa người có số với gia đình. Theo luật âm dương thì giờ dương là trưởng, giờ âm là thứ. Nhưng còn nhiều chi tiết ngoắt nghéo như dương nam, dương nữ, âm nam âm nữ, cung dương cung âm và Không Kiếp chi phối nhưng vẫn vẽ lên hình bóng dầu không chính xác là tượng trưng, như người âm nam sanh giờ dương ở cung dương là trưởng nam chính xác, nhưng người âm nam sanh giờ dương ở cung âm là người thứ thay trưởng lo toan mọi việc gia đình cũng là trưởng hình thức. Vậy có thể tóm tắt sắp xếp các chi tiết như sau:
a/- Dương nam sanh giờ dương là con trưởng
b/- Âm nam sanh giờ dương là con trưởng hình thức (cung dương)
c/- Âm nam sanh giờ dương ở cung âm + Không Kiếp (con thứ thay trưởng lo toan mọi việc gia đình)
d/ – Âm nam sanh giờ âm ở cung dương + Không Kiếp (trưởng bất lực nhờ con thứ thay chân lo liệu)
e/ – Âm nam sanh giờ âm ở cung âm (thứ nam bao bọc cả gia đình)
g/ – Dương nữ sanh giờ dương là trưởng nữ trong một ngành
h/ – Âm nữ sanh giờ âm ở âm cung là trưởng nữ bao sân
i/ – Dương nữ sanh giờ âm ở cung âm là thứ nữ
Những trường hợp trên đây là điển hình, còn tuỳ theo thay đổi cung (âm dương) và bộ sao Không Kiếp (thay đổi miễn cưỡng).
Điều ba chỉ sự liên hệ giữa chồng vợ (Mệnh và Phối). Trong 12 cung có 6 cung dương và 6 cung âm. Khi Mệnh ở dương cung thì cung phối cũng ở dương cung, trái lại Mệnh ở âm thì Phối cũng phải ở âm. Giữa 2 cung Mệnh và Phối luôn luôn có sự chế hoá như Thân Tí Thìn phải trên tay Dần Ngọ Tuất hay Hợi Mão Mùi thì Phối dễ dàng lấn Mệnh. Còn Mệnh ở Tỵ Dậu Sửu hay Thân Tí Thìn thì Mệnh không bao giờ để Phối áp đảo. Trường hợp Phối có Khoa Quyền Lộc ở Dần Ngọ Tuất hay Hợi Mão Mùi là vợi chồng nhân nhượng nể thương nhau. Người âm nam ở dương cung người dưong nữ ở âm cung, là nghịch địa âm dương sự bất ổn phát sanh ngay từ Mệnh, lại thêm Không Kiếp dấu ở Thân Tí Thìn hay Tỵ Dậu Sửu, màn cảnh hý trường diễn tả nhất Phối nhì trời, rất khéo léo lột hết tính thần. Còn một trường hợp khẳng định cho cả 2 phái nam và nữ khi Phối có Thiên tướng thì trai nể vợ, gái tìm cách lấn chồng.
Quang Trung đại đế tuổi Nhâm Thân sanh ngày 5 tháng 5 giờ Tuất. Người dương nam sanh giờ dương đáng lý là trưởng nam vì Địa kiếp ở cung Dậu sinh nhập cho Thân ở Thìn đành làm em út (sau Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ). Tư cách người dương đóng cung dương, mọi việc thu xếp cẩn thận chu đáo, sanh giờ dương thay mặt trưởng làm hết mọi việc lập sự nghiệp cho nhà Tây Sơn, ấy thế mà Phối có Thiên Tướng tấm thân vạn thắng phải hạ cố trước Ngọc Hân công chúa
(1) thêm yếu tố Mệnh đóng ở sinh, chính hay Mộ (bài 28)
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)