Đông cũng như Tây khoa chiêm nghiêm nói lên cuộc đời nhân thế đều cho là do sự chuyển dich của các hành tinh trong vũ trụ được ghi bằng những tên màu nhiệm. Riêng tử vi của Đông Á thấy có hai phần chính yếu. Trước hết là bản địa bàn chia làm 12 khoảng đều nhau định hướng Đông Tây Nam Bắc với tên đặt theo ngũ Hành Dần Mão (Mộc ) Tỵ Ngọ ( Hoả) Thân Dậu ( Kim) Hợi Tí (Thuỷ) và Thìn Tuất Sửu Mùi (Thổ) ở trong ghi những hành tinh trên dưới 100 tên.
Những tinh đẩu này phân chia thành những chòm nhớm tuỳ theo 4 yếu tố của dương nhân là năm tháng ngày giờ sanh mà ngự chiếm vị trí để thi thố tính cách của mình, ưu tiên là chính tinh, rồi đến trung tinh, phúc tinh và sát tinh. Theo hệ thống quan trọng, những chính tinh được đặc biệt chú ý coi như chủ nhân chỉ huy nên thường thấy quyết định cung nào không chính tinh, nhất là mệnh xem như vườn hoang vô chủ (mệnh vô chính diệu phi bần tắc yểu). Một khi thấy những quí tinh có đủ bầy tôi (trung tinh) xếp hàng qui tụ thì cho là cảnh đời tươi thắm.
Sự thật đâu có phải dễ dàng giản dị đến như thế. Đây chỉ là mớ trang sức bề ngoài, biết đâu chỉ là đồ đi vay mượn.
Thân thể của nhà lực sỹ vai u thịt bắp dẫu có mình trần hay khoác áo rách rưới cũng vẫn là người khoẻ mạnh. Trái lại kẻ ốm yếu dẫu có mặc gấm vóc vẫn thấy lúng túng kém vẻ hiên ngang. Vậy đâu là căn bản chính xác?
Thường thường cứ nghe người này tuổi Tí, ông kia tuổi Ngọ , bà đó tuổi Dậu nên bị thế này thế nọ. Thật là câu nói không có gì căn cứ. Trong 60 tuổi đời từ Giáp Tí đến Quí Hợi, mỗi chữ hàng chi luôn có 5 chữ như Tí thì có Giáp Tí ( kim) Đinh Tí (Thuỷ) , Mậu Tí (Hoả) , Canh Tí (thổ) Nhâm Tí (Mộc). Cần có hàng can ở trên mới thấy rõ ràng bao nhiêu tuổi và tư thế cá nhân sống trong hoàn cảnh. Như năm Giáp Dần, người tuổi Giáp Dần biết là 1 tuổi thì Bính Dần là 49 tuổi, Mậu Dần 37 tuổi, Canh Dần 25, Nhâm Dần 13 nghĩa là chữ Giáp có nghĩa là 1 ở hàng đơn vị, Bính là 9, Mậu 7, Canh 5, Nhâm 3 tuỳ theo con Giáp thêm bớt ở hàng chục. Mỗi năm kế tiếp thêm lên 1 tuổi ở hàng can.
Tuổi Giáp Dần thấy Can và chi đều là Mộc, biết ngay giá trị cá nhân dẫu ở hoàn cảnh nào sang hay hèn, cũng là người có căn bản vững chắc, dẫu không hơn ai cũng không phải kém ai. Tuổi Bính Dần có chi Mộc sinh can Hoả, người thường gặp may. Tuổi Mậu Dần, chi Dần (Mộc) khắc can Mậu (thổ) đường đời đầy nghịch cảnh. Tuổi Canh Dần thì Canh (Kim) khắc Dần (Chi) hoằn cảnh thường hay bị mắc nghẽn bế tắc. còn Nhâm Dần là tuổi được can Nhâm (thuỷ) sinh cho chi Dần (Mộc) là người có căn bản rất phong phú.
Đã thấy hàng Can của tuổi là căn bản gốc thì hàng năm xuống đến hàng tháng hàng ngày và giờ sự chế hoá của Can tuổi với Can năm tháng ngày giờ diễn chuyển quan hệ.
Tháng và giờ sinh dự phần sắp xếp Mệnh Thân ở địa bàn vẽ đường cho biết dương nhân là hạng người nào trong xã hội. Thái tuế hay Tuế phá, Thiếu Dương hay Thiếu âm.
Danh hiệu Thái Tuế là vị trí quá tốt cho tuổi, là chủ nhân trên miếng đất, căn nhà mình là chủ thì chính bạn Thái Tuế hay tam hợp cũng dự phần hãnh diện. Trái lại Tuế phá cũng như ai dự phần nghị lực (Thiên mã) quả cảm không kém sút (đồng thế âm dương với Thái tuế) chỉ vì phá cách nghịch lý tam hợp nên lâm vào cảnh đơn chiếc (Cô Quả) bất đắc ý. Thiếu Dương như Thiên không đã ghi báo, còn Thiếu âm thiệt thòi mọi nỗi, chỉ là con đường thắng đưa đến trôi nổi như cánh bèo mặt nước (trực phù). Cả 3 hạng này khác gì cảnh Kiều cư đất khách, không cho phép hưởng danh dự cho thân thế dầu có tận dụng khả năng. Chỉ còn một lộ trình trong tuổi là Tứ Đức để an vui tuổi thọ.
Một ngày năm xưa, một câu hỏi độc nhất với hai lá số:
a) Mậu Tuất ngày 8 tháng 4 giờ ngọ
b) Kỷ Mùi ngày 13 tháng 9 giờ thìn
Có thể là thầy trò được không?
Tuổi Mậu Tuất đứng ở vị trí Thiên không, còn Kỷ Mùi đóng ở Trực phù, cho biết ngay Mậu Tuất giác ngộ hơn với Hồng Loan, Thiên không và Quan Phúc ở Quan, Tả Hữu ở tài, Kỷ Mùi bị thua thiệt cay đắng mùi đời bằng Song Lộc Hoá Quyền nhập mệnh nên cam phận là đồ đệ nơi cuối giai đoạn ở phối gặp Thất Sát Cô Quả đắc tam hợp Hồng Loan Thiên không ở Phúc đức, Điền có Thiên Quan (vô chính diệu) gặp Tuyệt , Thân đóng ở tài có Thiên Phúc Vũ Tướng hình ảnh một kiếp thầy tu.
Với điều kiện ở 2 lá số trên hành tinh chỉ còn đóng vai trò phụ làm sáng tỏ thêm mà phần chính yếu ở 2 chữ tuổi và vị trí Mệnh Thân đứng trong địa bàn. Tư thế riêng biệt 60 tuổi và 12 vị trí lập thành 720 tư cách khác nhau. Nhận thấy Mậu Tuất và Kỷ Mùi cùng hàng can (Mậu Kỷ – Thổ) và chi (Tuất, Mùi – Thổ) sự khác nhau nơi hành Mộc và hành Hoả. Mậu Tuất Mộc khắc hẳn Thiên Phủ sao thủ mệnh nên người này không nghĩ đến sự phú quí, trái với Kỷ Mùi Hoả mệnh đắc Tử vi ở Ngọ nên còn theo đuổi sự hào nhoáng một giai đoạn (Hoả sinh Thổ) rồi mới tỉnh ngộ ở vị trí Trực phù.
Nếu là trường hợp Kỷ Mùi và Kỷ Sửu cùng 2 chữ Kỷ ở hàng Can và 2 chữ Sửu Mùi cùng là Thổ. Cả 2 chứ Kỷ Sửu và Kỷ Mùi đồng hành Hoả vẫn khác nhau vì Kỷ Mùi thuộc Thái dương trong lưỡng nghi, Kỷ Sửu thuộc Thái âm. Thuộc Thái dương sự sáng tỏ có bề toả rộng mà thuộc Thái âm sự hiều biết sâu sắc hơn. Như trong y giới, người Kỷ Mùi nên hành nghề lương y tổng quát chữa được nhiều bệnh nhân. Còn người Kỷ Sửu nên hoc chuyên khoa có phần thích đáng trong trường hợp khó khăn.
Dịch số là một khoa triết học xây dựng nên căn bản phân tích rành rẽ âm dương, luật ngũ hành cần được áp dụng sao cho hợp lý dưới mọi hình thức tinh thần hay vật chất, mọi sự sẽ phơi bày xác đáng.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)