Bài viết gom nhặt các bài viết riêng lẻ trên facebook của tác giả Quách Ngọc Bội để mọi người tham khảo, nghiên cứu.
Chương 3: Nhập môn Tử Vi Đẩu Số
Tiết thứ nhất: Các khái niệm cơ bản trong môn Tử Vi Đẩu Số
1.1 Tinh, Diệu và Đẩu
Hai chữ Tinh và Diệu đều có nghĩa là: (ngôi) SAO. Còn Đẩu là chỉ chòm sao Nam Đẩu hay chòm sao Bắc Đẩu, chòm sao Bắc Đẩu này có 7 ngôi sao nên thường gọi là Thất Tinh Bắc Đẩu (thực tế nó có 9 ngôi sao, gồm cả Tả Phù và Hữu Bật ở 2 bên, nhưng vì 2 sao này khó thấy nên được coi là trợ tinh cho 7 ngôi chính trong chòm), chòm sao Nam Đẩu thì có 6 ngôi nên gọi là Nam Đẩu Lục Tinh. Vào khoa TVĐS, thì Đẩu được gán dùng gần như là riêng cho sao Tử Vi, ngoài ra nó còn được dùng để phân chia tính chất thuộc Nam Đẩu, Bắc Đẩu cho một số sao.
Cần phân biệt khi nào thì người ta dùng chữ Tinh còn khi nào thì dùng chữ Diệu:
– Tinh, được dùng chỉ các Sao nói chung, hơn trăm sao của khoa TVĐS đều có thể gọi là Tinh. Như:
+ Chính Tinh = Chính Diệu = 14 sao của 2 vòng Tử Vi, Thiên Phủ.
+ Phụ Tinh = tất cả các sao còn lại trừ 14 sao thuộc Chính Tinh.
+ Lục cát tinh = 6 sao phò trợ có tính tốt lành nổi bật (Khôi, Việt, Xương, Khúc, Tả, Hữu).
+ Lục sát tinh = 6 sao có tính hung sát nổi bật (Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp). Trong đó thuật ngữ “Tứ Sát” được dùng phổ biến hơn gồm Kình, Đà, Linh, Hỏa.
+ Tứ Hóa tinh = 4 sao Lộc, Quyền, Khoa, Kị.
Về sự phân chia thứ/cấp bậc, một số sách Tàu (theo xuất phát từ đại tông sư Trương Khai Quyển) còn chia ra thành:
Giáp cấp tinh = các sao cấp một, cấp cao nhất, có tính quan trọng tác động mạnh mẽ nhất, gồm có 30 sao kể trên và 2 sao Lộc Tồn + Thiên Mã.
Ất cấp tinh = các sao cấp hai, gồm Thai – Tọa, Quang – Quý, Long – Phượng, Phụ – Cáo, Quan – Phúc, Tài – Thọ, Hồng – Hỉ, Giải Thần và Hình – Diêu, Thương – Sứ, Khốc – Hư, Cô – Quả,…
Bính cấp tinh = các sao cấp ba, gồm các sao của: vòng Bác Sĩ + vòng Tràng Sinh.
Đinh cấp tinh = các sao cấp bốn, gồm các sao vòng Tướng Tinh.
Mậu cấp tinh = các sao cấp năm, gồm các sao của vòng Thái Tuế.
Giới thiệu qua cách phân chia của Tàu để chúng ta khi đọc sách có thể hiểu rõ về thuật ngữ của họ, từ đó mà lần ra manh mối trong một số chiêu thức họ dùng. Chứ đối với Tử Vi Việt thì không phân chia rõ cấp độ Giáp Ất gì cả, vì một số sao cấp bét re như Tang, Tuế, Điếu nhiều khi còn có tác dụng mạnh, có tín hiệu thông tin rõ rệt hơn cả chính tinh tọa thủ.
– Diệu, từ này chỉ dùng chủ yếu cho 14 Chính Tinh và Tứ Hóa tinh và một vài sao quan trọng (thuộc nhóm sao cấp một) mà có thể phân định Miếu, Vượng, Đắc, Hãm, theo vị trí tọa thủ của chúng. Ta thường thấy các thuật ngữ như: Chính Diệu, Hóa Diệu, Sát Diệu, Tạp Diệu. Những sao thuộc cấp hai trở đi thì không được kể gọi là Diệu. Bởi vì 14 Chính Tinh được gọi là các Chính Diệu, cho nên cung nào mà không có Chính Diệu tọa thủ thì cung đó được gọi là Vô Chính Diệu.
1.2 Miếu, Vượng, Đắc, Bình, Hãm
Là những thuật ngữ được dùng chỉ nơi (cung) mà các sao tọa thủ, đồng thời cũng là nơi mà các sao phát huy được những tính chất tích cực cát lợi hay tiêu cực hung họa của chúng.
Một số trường phái dùng độ sáng của sao để mà giảng nghĩa về các thuật ngữ này, khá hình tượng và dễ hiểu: Khi một sao nào đó có được vị trí thuận lợi nhất, góc độ chiếu ánh sáng tốt nhất, thời gian phù hợp nhất,… thì được coi là nhập Miếu ở đó, bất kể là Cát tinh hay Hung tinh, lúc ấy đều mang đến những sự thuận lợi, khích lệ, những ảnh hưởng tích cực đối với người được ảnh hưởng bởi nó.
Chữ Miếu vốn có nghĩa là nơi thờ cúng thần linh, bởi vậy khi một sao nhập Miếu thì dù nó là Cát hay Hung tinh vẫn được coi như trở thành THẦN chứ không có Tính SÁT nữa. Cho nên, người ta lấy hình ảnh độ sáng rực rỡ, tinh anh của sao mà mô tả trạng thái nhập Miếu của sao.
Theo thứ tự Miếu, Vượng, Đắc, Bình, Hãm thì độ sáng giảm dần.
Tại sao người ta chỉ phân định vị trí Miếu, Vượng, Đắc, Bình, Hãm, cho một số sao?
Thưa, chỉ có những Diệu mới được coi là có thể thấy độ sáng rõ ràng, còn các phụ tinh khác thì ánh sáng có vẻ tương đương nhau suốt bốn mùa, dù là nó di chuyển đến góc nào, vị trí nào trên bầu trời vẫn thấy anh sáng không thay đổi.
Căn cứ vào đâu mà người ta phân biệt được sự thay đổi độ sáng này?
Thưa, trong thiên văn cổ, người ta (chủ yếu là các quan trong Khâm Thiên Giám hoặc cơ quan tương tự) quan sát và ghi chép rất tỉ mỉ về vị trí của các sao trên bầu trời trong suốt thời gian dài hàng trăm năm. Vì nhận thấy vị trí của khá nhiều sao có sự dịch chuyển sau 1 thời gian nhất định so với góc quan sát từ mặt đất, nên người ta mới dùng phương pháp vẽ ra các ô, các khung (gọi là cung) trên những tấm giấy ghi chép vị trí sao trên bầu trời. Rồi sau đó, khi nhìn trời người ta tưởng tượng trong đầu là vào thời gian đang quan sát thì những sao nào đang đi vào cung nào.
Trong môn Tử Vi, sự phân chia Miếu, Vượng, Đắc, Bình, Hãm, của các sao được căn cứ vào rất nhiều dữ kiện của Dịch Lý, Thiên Văn, Lịch Pháp, Ngũ Hành, Ngũ Sự, Tạp Chiêm,…
Ví dụ đối với Nhật – Nguyệt thì cứ theo lý thường (tạp chiêm) là ở các cung ứng với các Giờ theo thời gian thuộc Ban Ngày – khi mà Mặt Trời đang mọc lên thì Nhật được Đắc Vượng, đến các cung ứng với các giờ Tị, Ngọ thì Thái Dương nhập Miếu, sau đó là quá trình Mặt Trời lặn từ cung Thân cho đến các cung tương ứng Ban Đêm thì Thái Dương lạc Hãm. Đối với Nguyệt thì cũng theo cái lý tương tự nhưng diễn trình ngược lại.
Nhưng một số sao khác lại phải dùng Ngũ Hành mà định Đắc, Hãm,… một số sao lại phải dùng thời gian theo Lịch Pháp mà phân định nơi đắc hãm (có thời gian nó tỏ, có thời gian lại mờ)… một số sao lại phải dùng Dịch Lý (vị trí của các quái) mà định đắc, hãm,… chỉ có một điểm chung là mối tương quan Miếu Vượng Đắc Hãm của các sao đều phải phụ thuộc rất nhiều theo vị trí Miếu Vượng Đắc Hãm của 4 chúa tinh Tử – Phủ – Nhật – Nguyệt.
Khi các sao vào chỗ Hãm, thì dù là Cát tinh hay Hung tinh đều làm tăng tính tiêu cực, hung hiểm. Tính tốt, tích cực hầu như không phát huy được, trừ khi có Tuần Triệt đồng cung.
1.3 Các thuật ngữ về Cung, Thiên Bàn và Địa Bàn
Cung, là Không Gian nơi mà các sao cư ngụ, trên lá số Tử Vi được chia làm 12 cung, đặt tên theo 12 Địa Chi (từ Tý đến Hợi), đồng thời hàm chứa ý nghĩa về Thời Gian với 12 năm (Địa Chi theo Thái Tuế), 12 Tháng, 12 Giờ.
Như bài trước đã nói, Cung vốn là thuật ngữ của môn Thiên Văn Học, người ta phải chia sơ đồ trên giấy và trên trời (tưởng tượng có vạch phân chia) thành các cung khác nhau để theo dõi cho chính xác vị trí, triền thứ của sao sau mỗi thời gian nhất định trôi qua.
Khi đưa vào môn Tử Vi, vì cái lý “Trời tròn ôm lấy Đất vuông” của thuyết Cái Thiên, đầu tiên nên ta vẽ 1 hình vuông trên giấy để tượng trưng cho Đất, đó gọi là Địa Bàn. Tiếp đó, đem 12 cung của vòng tròn (như 1 tấm lưới 12 ô) tượng trưng cho Trời áp lên trên hình vuông của Địa bàn, 12 cung đó chính là Thiên Bàn. Để dễ nhìn và dễ vẽ 12 cung của vòng tròn Thiên Bàn được điều chỉnh thành vòng tuần hoàn 12 ô liên tiếp nằm ôm vừa vặn lấy hình vuông của Địa Bàn. Phần còn lại của Địa Bàn lúc này chỉ còn là ô vuông lớn nằm giữa lá số. Còn 12 ô vuông bé được gọi là Thiên Bàn.
Trước giờ khái niệm/thuật ngữ này được hiểu lẫn lộn, nhiều sách/người gọi ngược nhau, vì nhiều người cho rằng 12 ô vuông bé kia là Địa Bàn do nó mang tên của các Địa Chi. Thưa, không phải vậy, tên của 12 cung đó ban đầu là lấy theo tên của 12 cung trong Thiên Văn, sau mới được áp dụng tên Địa Chi của 12 tháng trong năm. Hơn nữa, các Sao thì phải nằm ở các cung trên trời, trên Thiên Bàn chứ, lẽ nào mà sao lại nằm ở dưới đất, dưới Địa Bàn cho được.
– Các cung Dần, Mão, Thìn: đại diện cho các tháng Giêng, Hai, Ba. Thuộc hướng Đông, trong đó vị trí Mão trỏ hướng Chính Đông. Đại diện cho mùa Xuân, có Hành thuộc Mộc, riêng cung Thìn thuộc Thổ vì tháng Ba là lúc khí Mộc của mùa Xuân đã bị suy yếu ẩn tàng đi để chuẩn bị bước sang mùa Hạ.
– Các cung Tị, Ngọ, Mùi: đại diện cho các tháng Tư, Năm, Sáu. Thuộc hướng Nam, trong đó vị trí Ngọ trỏ hướng Chính Nam. Đại diện cho mùa Hạ, có Hành thuộc Hỏa, riêng cung Mùi thuộc Thổ vì vào tháng Sáu thì khí Hỏa từ trời chiếu xuống đã suy yếu, thời tiết chuẩn bị bước sang mùa Thu.
– Các cung Thân, Dậu, Tuất: đại diện cho các tháng Bảy, Tám, Chín. Thuộc hướng Tây, trong đó vị trí Dậu trỏ hướng Chính Tây. Đại diện cho mùa Thu, có Hành thuộc Kim, riêng cung Tuất thuộc Thổ vì khi ấy khí khô táo của mùa Thu suy yếu, thời tiết có gió lạnh và chuẩn bị chuyển sang mùa Đông.
– Các cung Hợi, Tý, Sửu: đại diện cho các tháng Mười, Một (11), Chạp (12). Thuộc hướng Bắc, trong đó vị trí Tý trỏ hướng Chính Bắc. Đại diện cho mùa Đông, có Hành thuộc Thủy, riêng cung Sửu thuộc Thổ vì khi ấy khí lạnh đã suy yếu, chuẩn bị chuyển sang ấm áp của Mùa Xuân.
– Các Quái của các cung được phối với Hậu Thiên Bát Quái: Từ cung Tý ứng quái Khảm, Sửu & Dần ứng quái Cấn, Mão ứng quái Chấn, Thìn & Tị ứng quái Tốn, Ngọ ứng quái Ly, Mùi & Thân ứng quái Khôn, Dậu ứng quái Đoài, Tuất & Hợi ứng quái Càn.
– Nhàn Cung = Nơi mà một Sao nào đó có độ sáng kém, mờ,… nói cách khác thì ở “nhàn cung” thì Sao ấy lạc vào vị trí Bình hoặc Hãm. Thuật ngữ này dùng chủ yếu cho các Chính Diệu và các Cát tinh, vì khi đề cập đến nó thì người ta hay nói “lạc nhàn cung thì sức cứu giải kém,… lạc nhàn cung thì vô uy lực,…”, chứ hiếm thấy người ta sử dụng thuật ngữ này để nói về các Sát, Hung tinh.
– Cường Cung = Các cung (được cho là) có ảnh hưởng mạnh mẽ, quan trọng đối với số phận của 1 con người, đó là các cung: Mệnh, Phúc, Phu Thê, Quan Lộc, Tài Bạch, Thiên Di.
– Bản Cung = Cung mà ta đang xét, đang luận.
Ví dụ đang luận về vấn đề cha mẹ ở cung Phụ Mẫu thì cung này được gọi là Bản Cung. Nếu luận về vấn đề sức khỏe ở cung Tật Ách thì cung này được gọi là Bản Cung.
– Xung Cung = Hai cung mà nằm trên cùng một trục (trong 6 trục: Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi) thì được gọi là xung cung của nhau. Đôi khi, người ta còn gọi là “cung xung đối” hoặc “cung đối xung” vì 2 cung này vừa có Tính đối xứng với nhau qua tâm (trên trục của chúng và cũng là) của lá số, lại vừa có Tính đối xứng trục (qua trục khác vuông góc với trục của chúng).
Trong khi xem số (khán số), luận đoán lá số, thì Xung Cung có ảnh hưởng rất mạnh đối với cung đang xét. Vì lý rằng “có xung thì có động” (xung động) và ảnh hưởng của các sao trực chiếu (chiếu thẳng từ cung này tới cung xung với nó) là tác động cực lớn.
– Đối Cung = Hai cung mà có Tính đối xứng với nhau qua tâm hay qua một trục nào đó thì được gọi là “đối cung”.
Ví dụ 1: Xung Cung là trường hợp đặc biệt của Đối Cung.
Ví dụ 2: Cung Tý và cung Sửu được coi là đối cung của nhau qua trục phân chia gianh giới các cung Tý-Sửu và Ngọ-Mùi (nói cách khác là trục chia đôi lá số theo chiều dọc).
Ví dụ 3: Cung Tý và cung Tuất được coi là đối cung của nhau qua trục Tị-Hợi.
– Tam Phương = Ba cung Tam Hợp hợp với nhau = Từ 1 là Bản Cung đếm xuôi ngược đến 5 và đến 9 thì tới cung được gọi là Tam Hợp. Trên lá số Tử Vi có các Tam Hợp như sau:
+ Thân-Tý-Thìn: Ba cung này còn gọi là Tam Hợp Cục Thủy, tức là nhóm 3 cung này thành 1 cục và Hành của cục này là hành Thủy. (Nếu dùng lý tiêu trưởng 12 bước của vòng Tràng Sinh thì sẽ thấy địa chi đứng đầu sẽ ứng với vị trí Tràng Sinh, địa chi đứng giữa của Tam Hợp này sẽ ứng với vị trí Đế Vượng, địa chi đứng cuối sẽ ứng với vị trí Mộ. Nơi khí được Vượng nhất thì được lấy làm đặc trưng cho Tam Hợp này, mà Tý thì thuộc Thủy, cho nên Tam Hợp này mang hành Thủy).
+ Hợi-Mão-Mùi: còn gọi là Tam Hợp Cục Mộc.
+ Dần-Ngọ-Tuất: còn gọi là Tam Hợp Cục Hỏa.
+ Tị-Dậu-Sửu: còn gọi là Tam Hợp Cục Kim.
– Tứ Chính = Ba cung Tam Hợp + Xung cung.
Lưu ý, Tam phương Tứ chính thường được dùng cùng với nhau để nói về 3 cung, 4 cung mà có tác động mạnh mẽ nhất đến Bản Cung.
Ngoài ra, thuật ngữ Tứ Chính còn được dùng để chỉ 4 cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu vì Hành mỗi cung này là đại diện Chính cho các Hành của Cục mà nó tham dự.
Bên cạnh đó, cũng cần phải lưu ý, Tứ Chính còn được trường phái Tứ Hóa Phi Tinh của Tử Vi coi là 1 khái niệm riêng về 4 cung trên 2 trục trực giao (vuông góc với nhau), thí dụ như tổ hợp các cung Mệnh – Di – Điền – Tử.
Tổ hợp tương tác Tam Phương và tổ hợp tương tác trên 4 cung của 2 trục trực giao cũng là những tổ hợp chính trong phương pháp luận đoán của Chiêm Tinh Vedic và Chiêm Tinh phương Tây, trong đó, Tam Phương là có góc chiếu 120 độ (tính từ tâm, tức địa bàn quan sát) được gọi là tổ hợp tương tác Grand Trine = Đại Tam Hợp, còn tổ hợp 4 cung trên 2 trục trực giao có góc chiếu 90 độ (tính từ tâm) được gọi là tổ hợp tương tác T Square = T Vuông hay là Đại Trực Giao, còn tổ hợp 4 cung gồm 3 cung Tam Hợp và 1 cung ở đối xung với 1 đỉnh trong tam giác tam hợp đó thì được gọi là tổ hợp tương tác Kite = Hình Diều và đây chính là tổ hợp tương tác giống như thuật ngữ Tam Phương Tứ Chính của Tử Vi Đẩu Số theo trường phái Tam Hợp.
– Hiệp: Các Cát Tinh ở các cung giáp bên, tam hợp, đối chiếu cùng chiếu về bản cung có Cát Tinh; hoặc các Hung Tinh cùng tụ tập về bản cung có Hung Tinh; tức là các sao cùng tính cát (tốt) hay hung (xấu) tụ hội với nhau thì được gọi là “hiệp” = hiệp trợ, cùng hợp sức, cùng trợ giúp,… cho nhau.
– Hiếp: Các Hung Tinh ở các cung tam hợp, đối chiếu, giáp bên, cùng chiếu về bản cung có Cát Tinh, thì gọi là “hiếp” = ức hiếp, đe dọa, gây hoạn nạn,…
– Tọa: Các Cát Tinh nhập vào bản cung thì được gọi là Tọa (ngồi).
– Cứ: Các Hung Tinh nhập vào bản cung thì được gọi là Cứ (chiếm giữ).
– Triều: Các Cát Tinh ở cung xung đối, chiếu về bản cung thì được gọi là Triều (chầu).
– Xung: Các Hung Tinh ở cung xung đối, chiếu về bản cung thì được gọi là Xung (xung kích, kích động).
– Củng: Các Cát Tinh ở cung tam phương tứ chính (đôi khi tính cả cung nhị hợp) thì được gọi là Củng = vây quanh để củng cố, hỗ trợ.
– Cung Nhị Hợp = các cung đối xứng với nhau qua trục chia gianh giới dọc lá số, ảnh hưởng của Nhị Hợp thường có tính chất 1 chiều thì mạnh, chiều ngược lại thì yếu, có 6 cặp cung:
+ Sửu nhị hợp vào Tý
+ Hợi nhị hợp vào Dần
+ Mão nhị hợp vào Tuất
+ Dậu nhị hợp vào Thìn.
+ Tị nhị hợp vào Thân.
+ Mùi nhị hợp Ngọ.
– Cung Lục Hại = các cung đối xứng với nhau qua trục chia gianh giới ngang lá số, ảnh hưởng của Lục Hại có tác dụng 2 chiều tương đương và thường là khắc chế, làm hại lẫn nhau. Các cặp cung Lục Hại:
+ Tý <-> Mùi.
+ Sửu <-> Ngọ.
+ Dần <-> Tị.
+ Mão <-> Thìn.
+ Thân <-> Hợi.
+ Dậu <-> Tuất.
– Lân Cung, Giáp Cung = các cung ở cạnh, liền kề ngay bên bản cung thì được gọi là Lân (hàng xóm) Cung, giáp cung.
Các sao đôi từng cặp (như Nhật Nguyệt, Xương Khúc, Không Kiếp,…) mà ở tại các Lân Cung thì được gọi là “giáp bản cung” (gọi tắt = giáp).
– Thiên La = cung Thìn. Thìn là nơi biểu hiện của ngày Đông chí, mặt trời tới giờ Thìn mà vẫn “chưa mọc hết” tức là ở vị trí thấp nhất với đường chân trời so với các ngày khác trong năm. Hiện tượng đó được hình dung như mặt trời bị vướng vào cái lưới nên đặt tên là Thiên La cho cung Thìn, đặt vào đó 1 “sao” gọi là Thiên La, tượng là cái lưới, chặn, vướng mắc, khó khăn,…
– Địa Võng = cung Tuất. Tuất là nơi biểu hiện của ngày Hạ chí, mặt trời tới giờ Tuất mà vẫn “chưa lặn hết” tức là ở vị trí cao nhất với đường chân trời so với các ngày khác trong năm. Hiện tượng đó được hình dung như là mặt đất bị võng xuống nên giờ ấy mặt trời vẫn chưa lặn hết, nên đặt tên Địa Võng cho cung Tuất, đặt ở đó 1 sao Địa Võng, tượng là cái hố, cái bẫy, đất sụt, khó khăn,…
– Tứ Sinh / Tứ Mã = vị trí của các cung Dần, Thân, Tị, Hợi.
Tại đó, luôn luôn là vị trí mà sao Thiên Mã và sao Tràng Sinh, không bao giờ 2 sao này được an ở các cung ngoài 4 cung này.
Nếu xét các bộ Tam Hợp (ví dụ, Thân-Tý-Thìn) thì địa chi đứng đầu bao giờ cũng là ở vị trí của Sinh.
– Tứ Bại / Tứ Đào Hoa / Tứ Chính = vị trí của các cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
Tại đó luôn luôn là vị trí của Mộc Dục (của vòng Tràng Sinh cho Địa Chi) và của Đào Hoa, chủ phát dục, tình ái, tửu sắc cho nên gọi là Bại. Nếu xét các bộ Tam Hợp thì Địa Chi đứng chính giữa bao giờ cũng thuộc về Tứ Chính bởi vì đứng giữa Tam Hợp cũng là đứng giữa Tam Hội và ở Chính hướng theo các phương hướng Đông Tây Nam Bắc đồng thời là đại diện Chính cho Ngũ Hành của Tam Hợp và Tam Hội.
– Tứ Mộ = Các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Nguyên nhân và ý nghĩa cũng tương tự như cách giải thích 2 trường hợp trên.
– Lôi Môn = cung Mão, đó là vị trí được phối với quẻ Chấn, mà Chấn vi Lôi (chấn là sấm sét).
– Thiên Môn = cung Hợi (có khi kể cả Tuất) vì đó là vị trí được phối với quẻ Càn, mà Càn vi Thiên.
– Địa Môn = cung Tị (có khi kể cả Thìn) vì đó là nơi đối diện với Thiên Môn.
* Có nhiều sách dùng thuật ngữ “Thiên Môn, Địa Hộ” (cửa trời, cửa đất) là để chỉ cung Thìn và cung Tuất.
– Phân chia Tam Tài cho cung:
+ Tý Ngọ Mão Dậu thuộc tài Thiên, vì “Thiên khai ư Tý”.
+ Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc tài Địa, vì “Địa tịnh ư Sửu”.
+ Dần Thân Tị Hợi thuộc tài Nhân, vì “Nhân sinh ư Dần”.
———–
Chương 5: Phương pháp luận tổng quát Lá Số Tử Vi
A, Quan sát tổng quát 1 lượt khắp lá số (đừng có tạo thói quen xấu là cầm lstv lên lại cắm cúi ngay vào xem mỗi cung Mệnh hay mỗi cung nào đó đang quan tâm):
1, Thuận lý hay Nghịch lý giữa [Năm sinh với Tháng sinh]; giữa [Ngày sinh với Giờ sinh].
Trong mỗi cặp so sánh, nếu các yếu tố cùng thuộc dương thì thuận lý, còn một dương một âm thì nghịch lý. Nếu cả 4 yếu tố đều thuộc âm hay đều thuộc dương là rất tốt vì được thuần cách âm dương tính. Thuận lý thì độ số tăng, nghịch lý thì độ số giảm.
2, Tương Sinh hay Tương Khắc giữa [Năm sinh với Tháng sinh]; giữa [Ngày sinh với Giờ sinh].
So sánh về Sinh Khắc của Nạp Âm Ngũ Hành các yếu tố trong từng cặp xem thế nào: Nếu năm tương sinh cho tháng thì tốt; ngày tương sinh cho giờ thì tốt. Nếu Năm sinh cho Tháng, Tháng lại sinh cho Ngày, Ngày sinh cho Giờ thì rất tốt, số đại quý.
3, Hợp hay Phá giữa [Năm sinh với Tháng sinh]; giữa [Ngày sinh với Giờ sinh].
So sánh về sinh khắc của Ngũ Hành đơn theo Thiên Can của các yếu tố trong từng cặp. Hợp thì độ số tăng mà Phá là độ số giảm.
* Nhận xét: Từ các điểm 1, 2, 3, thì ta có thể phân biệt được sự khác nhau và độ số cao thấp của 2 lá số giống hệt nhau nhưng sinh cách nhau 60 năm. Bởi lẽ Can-Chi của ngày khác nhau (đồng nghĩa với Can của Giờ cũng khác nhau). Lại có cả những trường hợp 2 lá số giống hệt nhau nhưng chỉ sinh cách nhau 12 ngày hoặc 24 ngày trong cùng tháng cùng năm và trùng cả giờ sinh, điều này chỉ xảy ra với Thủy Nhị Cục (6 trường hợp) và Thổ Ngũ Cục (12 trường hợp), và sự lệch nhau theo số ngày như trên làm cho 4 sao Thai Tọa Quang Quý đóng vào vị trí giống nhau theo vòng lặp, để phân biệt sự khác nhau về độ số của các lá số trùng lặp này, rất đơn giản là nhìn vào Thiên Can của Ngày (và Giờ), bởi vì lặp lại 12 & 24 ngày chính là lặp lại về Địa Chi của ngày nhưng đối với Thiên Can của ngày thì lại không bị lặp lại giống nhau. Đây là điều trọng yếu mà trước giờ ít người biết đến hoặc không để ý đến, hoặc là có biết nhưng không nói lộ ra.
4, Tương Sinh hay Tương Khắc giữa [Bản Mệnh với Cục].
Bản Mệnh = hành khí nạp âm của cả năm. Ví dụ, người sinh Quý Tị có Bản Mệnh là Thủy. Thì khí Thủy làm chủ của cả năm Quý Tị này.
Hành của Cục = hành khí nạp âm của tháng (trong năm mà đương số sinh ra) – chính là nơi mà an cung Mệnh vào đó.
Nếu mà Mệnh Cục tương sinh hoặc tỉ hòa với nhau thì được đánh giá là một yếu tố tốt – làm tăng độ số, không cần phân biệt quá chi tiết xem Mệnh sinh Cục tốt hơn hay Cục sinh Mệnh thì tốt hơn. Còn nếu như Mệnh Cục tương khắc thì cần đánh giá đây là một yếu tốt kém – làm giảm độ số, cũng không cần phân biệt quá chi tiết xem Mệnh khắc Cục xấu hơn hay Cục khắc Mệnh xấu hơn.
Lưu ý: đã xét sinh khắc của Ngũ Hành thì đồng thời phải chú ý đến Âm Dương tính của chúng, mà Âm Dương tính của Bản Mệnh với Cục chính là bước ngay sau đây.
4+, Thuận lý hay Nghịch lý giữa [Năm sinh với Cung an Mệnh].
Sinh năm dương và Mệnh an cung dương; sinh năm âm và Mệnh an cung âm; đều là thuận lý. Cứ trái nhau về âm dương là nghịch lý.
Thực chất thì đây cũng chính là xét đến Âm Dương tính của Bản Mệnh với Cục, nếu như Mệnh Cục tương sinh và Âm Dương thuận lý thì độ số tăng mạnh (độ số là thuật ngữ chung chung chỉ về cường độ của khí lực) nếu Cách Cục tốt nữa thì sẽ lực phát rất nhanh mạnh, nếu Cách Cục xấu thì cũng là yếu tố cứu vớt cho đỡ bị chết non. Nếu như Mệnh Cục tương sinh nhưng Âm Dương nghịch lý thì có Cách Cục tốt vẫn chậm phát hoặc không phát lớn vì lực phát yếu, còn Cách Cục mà xấu thì cũng không cứu được nhiều. Nếu như Mệnh Cục tương khắc mà Âm Dương nghịch lý thì Cách Cục tốt vẫn sẽ phát nhưng rất chậm, do cái khắc khác tính Âm Dương không ác liệt, nếu Cách Cục xấu thì cũng chưa chắc đã chết non mà có thể cứu được. Nếu như Mệnh Cục tương khắc mà Âm Dương thuận lý thì cái khắc cùng tính Âm Dương này rất mãnh liệt, Cách Cục tốt thì vẫn không được hưởng nhiều mà phát thì cực chậm lại chẳng thể phát lớn, còn một khi Cách Cục xấu mà Mệnh cung lại còn ở chỗ Tuyệt khí thì chết non, khó cứu.
Lưu ý: Sách của Thái Thứ Lang còn nói “Sinh Giờ dương mà Mệnh an cung dương là thuận lý”. Từ cách an cung Mệnh, ta thấy khi sinh tháng dương thì giờ cũng phải thuộc dương thì cung Mệnh mới đóng ở dương cung, khi sinh tháng âm thì giờ sinh phải là dương thì Mệnh mới an ở cung âm được. Cho nên sự so sánh về thuận nghịch lý âm dương của [Giờ sinh với cung an Mệnh] không cần phải quan tâm nữa.
5, Mối quan hệ giữa [Hành của Bản Mệnh với Cung an Mệnh]
Nếu cung Mệnh ở vào vị trí Sinh Vượng của ngũ hành Bản Mệnh thì tốt. Thấy tốt rồi thì xét thêm đến tinh đẩu trong cung Mệnh (xem mục 6 bên dưới) xem miếu vượng hay không, có thành cách cục hay không,… Cần chú ý rằng, ở đây chúng ta không xét sự sinh khắc về Ngũ Hành của Bản Mệnh với cung an Mệnh, mà chúng ta xét vị khí cung an Mệnh nằm ở chỗ nào, thời kỳ nào trong 12 trạng thái vượng suy theo khí Ngũ Hành của Vòng Tràng Sinh Bản Mệnh.
Nếu như cung Mệnh ở vào vị trí Bại Suy Tử Tuyệt của ngũ hành Bản Mệnh thì xấu. Nhưng ở vào chỗ này, nếu như được ngũ hành của Chính Tinh tương sinh cho Bản Mệnh thì lại được cứu giải.
Ví dụ như Mệnh Thủy mà cung Mệnh an tại Thân (khỉ) là Sinh địa, an tại Dậu là Bại địa, an tại Hợi Tý là chỗ Thịnh Vượng, an tại Sửu là Suy, tại Dần là Bệnh, tại Mão là Tử, tại Tị là Tuyệt địa.
Mệnh Thủy mà Mệnh an tại Tị, có sao thuộc hành Kim ở đó là sẽ được cứu giải, vì Kim tương sinh cho Thủy.
Sách viết:
– Nam cư Sinh Vượng tối yếu đắc địa, Nữ cư Tử Tuyệt chuyên khán Phúc Đức.
(Nam nhân mệnh ở chỗ Sinh Vượng thì tối quan trọng phải xem tinh đẩu có đắc địa chăng,
Nữ nhân mệnh ở chỗ Tử Tuyệt thì phải xem chuyên sâu vào cung Phúc Đức).
– Mệnh tối hiềm lập vu bại địa, Tài nguyên khước phạ phùng Không Vong.
(Mệnh rất sợ an vào chỗ bại địa, Tài tinh tài cung thì ghét gặp phải Không Vong).
– Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa. Tuyệt xứ phùng sinh, sinh hoa bất bại.
(Mệnh cư chỗ bại địa là như hoa sớm nở tối tàn. Mệnh ở chỗ tuyệt địa nhưng được tương sinh thì không thể suy tàn sớm được).
5+, Thuận hay không thuận của [Bản Mệnh với Mùa sinh].
Bản Mệnh Mộc sinh mùa Xuân mộc, Bản Mệnh Hỏa sinh mùa Hạ hỏa, Bản Mệnh Kim sinh mùa Thu kim, Bản Mệnh Thủy sinh mùa Đông thủy, Bản Mệnh Thổ sinh vào tứ Quý thổ (18 ngày cuối mỗi mùa) đều gọi là Mệnh được Vượng.
Bản Mệnh Mộc sinh mùa Đông thủy, Bản Mệnh Hỏa sinh mùa Xuân mộc, Bản Mệnh Kim sinh tứ Quý thổ, Bản Mệnh Thủy sinh mùa Thu kim, Bản Mệnh Thổ sinh vào mùa Hạ hỏa, đều gọi là Mệnh được Tướng.
Vượng Tướng là thuận, độ số được gia tăng. Còn Hưu Tù Tử Tuyệt đều bất thuận, độ số giảm.
Lưu ý: Đây là xét Ngũ Hành Nạp Âm của Bản Mệnh với Ngũ Hành theo “phương Cục” lại khác với trường hợp so 2 Nạp Âm với nhau. Vì đây là xét thiên về Khí chứ không coi Số làm trọng nữa. Bởi vì ngũ hành của “phương Cục” không phải là Ngũ hành nạp âm, mà nó là Khí điển hình của Mùa trong năm.
6, Chính Diệu thủ (ở cung) Mệnh:
* Miếu hay Hãm.
Các sao miếu vượng thì hay, nếu như lạc hãm thì dở. Nhưng miếu vượng mà gặp Không Vong thì dở mà lạc hãm gặp Không Vong thì lại hay.
Cái này, sách gọi là “Tinh luận miếu vượng tối phạ không vong, Sát lạc không vong cánh vô uy lực”.
(Luận các sao, đã miếu vượng thì rất sợ gặp phải Không Vong, còn Sát tinh mà gặp Không Vong thì không đáng ngại vì nó chẳng có uy lực gây họa gì nữa).
Miếu và Hãm còn liên quan rất trọng yếu đến mức độ cát hung, người xưa phân chia thành các mức độ là Hư và Thực:
Cát tinh ở nơi miếu vượng là thực cát, nhất định là có tốt lành. Còn cát tinh ở nơi hãm địa thì là hư cát, không phát huy được tính tốt, mà còn thể hiện tính xấu, mặt trái của nó.
Hung tinh ở nơi hãm địa là thực hung, nhất định là có tính hung sát, gây ra tai nạn, bệnh tật,…
Hung tinh ở nơi miếu vượng là hư hung, vì là hư hung nên chẳng đáng sợ, nó còn phát huy và bổ xung được tính quyết liệt mạnh mẽ tích cực lên cách cục, người làm nên đại sự không thể thiếu vắng sự quyết liệt của hung tinh đắc địa. Sách nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi” chính là vì như vậy.
Và sách cũng nói “Hung bất giai hung, cát vô thuần cát” (Hung thì không có lúc nào nó cũng hung, Cát thì cũng chẳng phải lúc nào cũng thuần là cát), chính là nói đến cái Hư Thực về tính Cát Hung của các sao vậy.
* Hợp hay không so với Bản Mệnh về âm dương tính.
Tức là xét xem tính Nam Bắc đẩu của Chính tinh và đương số là Âm Dương Nam Nữ như thế nào.
Nam đẩu tác phúc cho Dương nam Âm nữ. Bắc đẩu thì tác phúc cho Âm nam Dương nữ.
* Sinh hay Khắc so với Bản Mệnh về ngũ hành tính.
Tức là xét sinh khắc về ngũ hành của Chính tinh thủ Mệnh với Bản Mệnh. Chính Tinh đồng hành hoặc tương sinh cho bản Mệnh thì hay, còn nó tương khắc với Mệnh thì dở.
Sách gọi là:
Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.
Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.
(Sao đã lâm vào nơi miếu vượng, lại cần xét xem then chốt của sinh khắc.
(Mệnh đóng vào cường cung, cần quan sát kỹ cái lý chế hóa).
Ở mục 6 này, lẽ ra tôi sẽ viết luôn Phép Luận Chủ Khách, nhưng vì nó dài quá, sẽ khiến cho anh chị em học viên khó nắm bắt 12 điều tổng quát, nên tôi cắt ra để riêng.
7, Tốt hay Xấu giữa [cung Mệnh với cung Thân].
Sách nói:
– Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị.
Lập mệnh khả tri quý tiện, an thân tiện hiểu căn cơ.
(Nên biết rằng tươi tốt hay khô héo của một đời được định bởi việc xem ngũ hành cung vị. Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay tiện-hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số.
Một đời vinh nhục bại thành
Cần xem tường tận ngũ hành của cung
Lập Mệnh quý tiện định chung
An Thân biết có vẫy vùng được chăng).
– Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã, nhân sinh nhất mệnh chi trung nhi kiến chi dã, thử tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên.
(Người phú quý thì vinh vậy, kẻ bần tiện thì nhục vậy, xem trong số mệnh của con người mà biết vậy. Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì sẽ được một đời an nhiên tự tại).
– Mệnh hảo Thân hảo Hạn hảo đáo lão vinh xương,
Mệnh suy Thân suy Hạn suy chung thân khất cái.
(Mệnh tốt, Thân tốt, Hạn tốt thì tới già vẫn được vinh quang hưng thịnh,
Mệnh suy, Thân suy, Hạn suy thì cả đời chỉ có đi ăn mày).
– Mệnh Triệt, Thân Tuần, tu cần Vô hữu chính tinh, vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi.
Mệnh Tuần, Thân Triệt, hoan đắc Văn đoàn hữu thủ, phú quý danh tài cánh phát chung niên.
(Mệnh Triệt, Thân Tuần, rất cần Vô Chính diệu, cuối đời thì vạn sự có thể thành công.
Mệnh Tuần, Thân Triệt, mừng được Cơ Nguyệt Đồng Lương, cuối đời phát công danh phú quý).
– Mệnh Không, Thân Kiếp, lai hội song Hao, ư nhân Mệnh vô chính diệu, thiểu học đa thành,
mạc ngộ Phúc Ấm, Hao tinh Thân Mệnh, niên thọ nãi cầu vượng hưởng.
(Mệnh Không, Thân Kiếp, lại hội Song Hao, người Mệnh cung VCD thì thông minh, học 1 biết 10,
Nếu mà Mệnh cung lại có Đồng Lương hay Phá Quân ở Thân Mệnh thì đừng hòng đòi hưởng thọ).
– Mệnh Kiếp, Thân Không, nhi giao Hồng Nhận, ư tuế Mệnh lạc chính tinh, tiền đồ đa khổ,
nhi hữu Âm Dương, Đế diện Mệnh Thân, chung niên Phúc hoạnh sinh tài.
(Mệnh Kiếp, Thân Không, lại hội Hồng với Kình ở cung Mệnh có chính tinh lạc hãm là nửa cuộc đời ban đầu lắm khổ đau, thậm chí có thể chết non.
Nếu như có Nhật Nguyệt hay Tử Vi sáng sủa chiếu về Mệnh Thân thì cuối đời bỗng nhiên lại giàu).
– Thân Mệnh đồng cung, tối hiềm nhập Mộ, hoặc ư Tuyệt xứ bất kiến chính tinh,
tu cần tả hữu Vượng Sinh hòa nhập, biến hung thành cát, chung thân vượng hưởng phúc tài.
(Mệnh Thân đồng cung, rất kị ở nơi Mộ địa hoặc ở chỗ Tuyệt địa, mà lại không có chính tinh,
Mà trường hợp này rất cần ở 2 bên cánh trái phải – tức Tài Quan, là chỗ Sinh Vượng địa có các cát tinh để tương trợ biến hung thành cát, như vậy cuối đời mới được hưởng phúc, được giàu sang).
– Mệnh Thân đồng tọa, như tại Hỏa cung, hoặc lâm Hợi địa, đồng vô chính diệu,
khủng kiến Mã Hình Linh Kiếp, thử chung hoa khai ngộ vũ, mãn thế phi bần tắc yểu.
(Mệnh Thân đồng cung tại Tị Hợi mà lại VCD thì sợ nhất là gặp Mã, Hình, Linh, Kiếp
Như thế là cảnh hoa mới nở gặp ngay mưa gió vùi dập, cả đời nếu chẳng nghèo thì sẽ chết non).
8, Tốt hay Xấu của cung Phúc Đức.
Sách nói:
Phú, Thọ, Quý, Vinh, Bần, Yểu, Ai, Khổ do ư Phúc trạch cát hung.
(Giàu nghèo, thọ yểu, sang hèn, vinh nhục, đều là do cát hung ở cung Phúc cả).
Đem phối hợp với Mệnh cung mà đoán.
9, Vị trí của Chính Diệu ở 12 cung: [Miếu hay Hãm]; [đúng Vị hay sai Vị].
Miếu hãm thì như đã nói ở phần trên, còn đúng Vị thì có nghĩa là Tài tinh đóng ở Tài cung, Quyền tinh Quý tinh đóng ở Quan cung, Phúc tinh Ấm tinh đóng ở Phúc cung Phụ Mẫu cung,…
10, Vị trí của Tứ Hóa trên 12 cung: Có được việc hay không.
Hóa Quyền hóa Khoa thì đóng ở cung Quan cung Mệnh, Hóa Lộc thì đóng ở cung Điền cung Tài. Hóa Kị đóng nơi Tứ Mộ địa hoặc đồng cung Thanh Long, hoặc đồng cung Âm Dương sửu mùi, hoặc đồng cung Liêm Tham tị hợi,… đó đều là được việc cả.
11, Vị trí của Lục Sát Tinh (Kình Đà, Linh Hỏa, Kiếp Không).
Sát tinh ở nơi đắc địa thì hay, còn ở chỗ hãm thì dở, mà đã hãm thì chớ có lâm vào Mệnh Tài Quan.
Xem thêm phần nói về đắc hãm và hư thực cát hung của sao ở mục 6.
12, Đại Hạn 10 năm vận hành trên 12 cung.
Sách nói:
Thương, Tang, Hình, Khổn, Hạnh, Lạc, Hỷ, Hoan thị lại vận hạn cát hung.
(Vui buồn sướng khổ chính là do Vận Hạn gặp các Sao/ Cách cục cát hay hung)
Đem phối hợp với Mệnh cung mà đoán.
———–
Phép luận Chủ Khách
Ở bước này, đề xuất xét các bước như đã làm ở mục 6., nhưng không chỉ xét với Chính Tinh mà phải xét cả các Phụ tinh. Ý nghĩa của phép luận Chủ Khách là để phân định mức độ cát hung, tính chủ động hay bị động trong diễn biến cát hung đó.
Phép luận này không chỉ áp dụng cho cung Mệnh mà còn có thể áp dụng cho các cung còn lại, đặc biệt là dùng khi xét đoán hạn.
* Phép phân chia Chủ-Khách của người xưa có ứng dụng rất lớn, trong nhiều môn và thuật khác nhau. Bản chất là dựa vào sự đối đãi của Động-Tĩnh, đó là cái Lý được suy từ quá trình vận động của Âm-Dương mà ra. Phàm cái gì Động (hoặc Động trước) thì coi là Khách, cái gì Tĩnh (hoặc Động sau) thì coi là Chủ. Bên Trong làm chủ mà bên Ngoài làm khách. Thâm sâu làm Chủ mà Nông cạn ấy là Khách,… Bởi vì Động-Tĩnh tuần hoàn thay đổi liên miên bất tuyệt, khi thì Dương động Âm tĩnh, khi thì Âm động Dương tĩnh, đó là do cái thế ta quán xét vậy, hay nói cách khác thì là tùy thuộc vào hệ quy chiếu vậy. Lão Tử cũng nói, Thấp-Cao, Trước-Sau, Ngắn-Dài, Dễ-Khó ấy là tùy vào người ta trông nó ngược hay xuôi vậy.
Đem vận dụng vào môn Tử Vi Đẩu Số thì ta thấy rằng:
* Hi Di tiên sinh nói:
Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời.
Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,
Động-Tĩnh, tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm Khách được!
…
Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại.
Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm.
(Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau,
vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau.
* Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý,
Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp.
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát,
Cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh.
Cát tinh nhập mệnh viên (miếu đắc) thì sẽ được cát lợi,
Hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung.
* Hung hay cát của các Sao cũng như Cách cục của chúng không chỉ cứ chăm chăm nhìn vào tính chất của chúng, mà còn phải xem nó đi vào triền độ nào, đóng ở cung nào, thế đứng ra sao, miếu vượng hay lạc hãm, có gặp khắc chế hay không.
Hung sát tinh mà đắc địa thì đó là hư hung, đã là hư hung thì không đáng ngại, nếu như hãm địa thì đó là thực hung, đã là thực hung thì nguy hiểm. Hung sát tinh gặp khắc / chế của chúng thì không đáng ngại. Như Hỏa Linh mà gặp Tử Vi hoặc Tham Lang ở chỗ mà Tử hay Tham miếu đắc vượng thì Hỏa Linh có hãm cũng không phải thực hung (ví dụ tại Mùi cung gặp Tham, tại Thân cung gặp Tử Phủ).
Cát tinh mà đắc địa thì mới là thực cát, đã là thực cát thì nhất định có lợi lộc tốt lành vui vẻ, nếu như cát tinh lạc hãm thì là hư cát mà đã là hư cát thì chẳng có gì hay ho thậm chí còn có hại. Ví dụ Thiên Đồng là Phúc tinh, nếu lạc đến chỗ cung Tuất thì nam phiêu lãng ham chơi, nữ thời đa dâm.
* Trên lá số, lấy Bản cung (cung ta đang xét) để mà coi các Sao ở đó làm Chủ, các sao ở Xung cung làm chính Khách Tam hợp cung làm thứ Khách. Vì rằng Xung ấy là khởi nguồn của Động vậy. Giả như Bản cung vô chính diệu thì mượn chính diệu của Xung cung làm Chủ, xem các sao ở Tam Hợp chiếu làm Khách.
Chủ có chính tinh hãm, có sát hung tinh hãm tọa thủ Bản cung thì Chủ nhược yếu:
– nếu tam phương tứ chính có nhiều hung sát mạnh, tức là Khách hung mạnh thì cực kỳ nguy hiểm.
– nếu tam phương tứ chính có cát tinh trợ thì ấy là Khách hiền tới giúp chiếu về thì tuy nguy hiểm nhưng có thể thoát được, có người khác trợ giúp trong lúc ta gặp khó khăn.
Chủ có chính tinh miếu, đắc cách, thành bộ, không có sát tinh, ấy là Chủ cường:
– nếu tam phương tứ chính sát hung tinh đắc địa vây chiếu, ấy là Khách hư hung, thì như xông pha giữa chiến trường lập đại công mà vẫn chẳng mũi tên hòn đạn nào xâm phạm được.
– nếu tam phương tứ chính sát hung hãm, ấy là Khách thực hung, thì giống như là tự lực đối chọi lại với ngoại cảnh khó khăn, hay giống như cảnh ông Khổng Tử có tài mà hoàn cảnh thời vận không ủng hộ vậy.
Chủ cát, cung đối xung hung, 2 cung tam hợp chiếu cát, vậy là đương đầu với khó khăn, với kẻ địch mạnh nhưng được vây cánh trợ giúp ắt sẽ vượt qua vậy.
Nếu như Chủ cát mà tam phương tứ chính cũng toàn cát tinh thì như rồng gặp mây, như hổ mọc thêm cánh. Ấy là tại sao mà cách Tử Phủ Dần Thân đắc Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt ở tam phương chiếu về lại được gọi là quân thần khánh hội (vua tôi mừng tụ hội) vậy.
…
Cứ thế mà phân tích diễn giải cho từng trường hợp chi tiết sẽ thấy rõ rằng khắp 12 cung đều có thể là Ta cũng đều có thể là Địch, đừng bao giờ lậm vào cái suy nghĩ rằng tốt mới là Ta và xấu mới là Địch.
Sách còn viết:
Cát hung tối yếu tế phân minh
bản đối hợp lân hữu trọng khinh
tứ diện sở ca chung tất bại
thiên tường vân tập tự nhiên hanh
(Cát hung phân biệt, xét cho tinh
Bản, đối, hợp, lân, có trọng khinh
Gặp địch bốn bề, cục tất bại
Mây lành tụ tập, tự nhiên vinh).
Tự cường tài thị hảo nhân gia
lân xá duy thiêm cẩm thượng hoa
nhược đáo phùng nguyên chân cảnh địa
xuân phong chích khả cảm tương soa
(Tự cường mới xứng kẻ tài ba
Hàng xóm chỉ như gấm thêm hoa
Nếu được gặp nguồn cảnh địa tốt
Gió Xuân cũng thẹn bởi kém xa)
Lưỡng lân tương vũ khởi vi tai
tự phạt tài giáo đại khả ai
dịch đóa đương đầu nhất côn bổng
nan phòng tả hữu tập binh lai
(Hàng xóm khinh nhờn khởi họa tai
Tự nhiên tốn sức thật bi ai
Đương đầu ác bổng còn dễ né
Tập kích đôi bên khó thoát hoài)
Bản phương cát vị chi do nội tự cường.
Bản phương hung vị chi tòng căn tự phạt.
(Bản phương được cát lợi ấy là do bên trong tự đã có lực mạnh mẽ
Bản phương hung ấy là do nguồn cơn tự phạt chính mình)
Đối phương cát vị chi nghênh diện xuân phong.
Đối phương hung vị chi đương đầu ác bổng.
(Đối phương cát như ngẩng mặt đón gió Xuân
Đối phương hung như đương đầu với cây ác bổng)
Hợp phương cát vị chi tả hữu phùng nguyên.
Hợp phương hung vị chi tả hữu thụ địch.
(Hợp phương cát ấy là hai cánh trái phải gặp được nguồn cội
Hợp phương hung ấy là hai cánh trái phải gặp kẻ địch)
Lân phương cát vị chi lưỡng lân tương phù.
Lân phương hung vị chi lưỡng lân tương vũ.
(Lân phương cát ấy là đôi bên kề cận tương trợ
Lân phương hung ấy là đôi bên kề cận khinh nhờn).
Phương cung giai cát vị chi thiên tường vân tập.
Phương cung giai hung vị chi tứ diện sở ca.
(Cung ở các phương đều cát ấy là ngàn mây lành tụ hội
Cung ở các phương đều hung ấy là bốn bề thọ địch).
Đó chính là yếu quyết để phân định nặng nhẹ chủ khách cát hung theo Bản (bản cung), Đối (cung đối xung), Hợp (2 cung tam hợp chiếu), Lân (2 giáp cung).
———–
Luận các cung Cường-Nhược đối với Nam Nữ mệnh
Nam Mệnh: Tài Bạch, Quan Lộc, Phúc Đức, Thiên Di, Điền Trạch là cường cung. Còn lại là Tật Ách, Nô Bộc, Huynh Đệ, Tử Tức, Phụ Mẫu là nhược cung.
Nữ Mệnh: Phu Quân, Tử Tức, Tài Bạch, Điền Trạch, Phúc Đức là cường cung, các cung còn lại là nhược cung.
Sách viết:
Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan phu tử nhị cung,
nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc,
hoặc phùng dương đà, tu đề khốc nhi lệ bất càn.
(Phàm xem Mệnh của nữ nhân, trước tiên cần xem hai cung là Phu và Tử Tức,
Nếu gặp sát tinh (ở cung Phu), thì xác định là ba lần xuất giá mà lòng vẫn chẳng được yên,
Hoặc phùng Kình Đà (ở cung Tử), thì cần đề phòng phải khóc con đến cạn nước mắt).
Nhược quan nam mệnh, thủy dĩ phúc tài vi chủ,
tái thẩm thiên di như hà, nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoạn.
(Nếu xem Mệnh của nam nhân, ban đầu lấy Phúc cung và Tài Bạch, Quan Lộc cung, để làm chủ,
Tiếp đến khảo sát Thiên Di như thế nào, Đại Tiểu hạn có cát hung qua lại làm sao để mà đoán).
Nam nữ hữu biệt, tuy thị hữu biệt khước hợp tham.
Nữ dĩ hà trọng? Trọng Mệnh Thân Phu Tử Phúc Điền.
Tam tài lưu bàn, tứ bàn hợp tham định nhất sinh.
Mệnh Thân vi minh, Thái Tuế sở tại ám Mệnh cung.
Luận mệnh chi pháp, thị cố dục tường nhi nan tận.
(Phân chia nam, nữ mà bình
Có chung, có khác, như tình âm dương.
Với nữ thì sáu cung cường:
Mệnh, Thân, Phu, Tử, Phúc, Điền, ưu tiên.
Tam tài lưu bàn định miền
Tứ bàn phối hợp biết liền chung thân.
Minh thì xem ở mệnh thân
Ám thời Thái Tuế ẩn phần mệnh cung.
Phương pháp xem mệnh vô cùng
Để cho tường hết… khó dùng lời thay!)
Chỗ này có câu cần phải nhấn mạnh về tính quan trọng của nó để anh chị em học viên ghi nhớ là:
Mệnh Thân vi minh, Thái Tuế sở tại ám Mệnh cung.
(Minh thì xem ở Mệnh Thân
Ám thời Thái Tuế ẩn phần mệnh cung).
Tức là khi khán các cung Mệnh Thân thì chúng có thể cho ta thấy những biểu hiện rõ ràng về đương số, nhưng những thông tin mang tính tiềm ẩn, không bộc lộ dễ dàng ra bên ngoài của đương số thì lại cần xem cho kỹ ở cung Thái Tuế.
Để rõ hơn về điều này, QNB xin trích dẫn ra đây một số phần khuyên răn về đẩu số của đại sư Tử Vân, chuyên gia với cách ứng dụng xem Thái Tuế. Việc trích dẫn này cũng đồng thời nhằm mục đích nhắn gửi tới anh chị em học viên rằng, Tử Vi Đẩu Số còn rất nhiều những mảnh đất màu mỡ chờ đợi người học Tử Vi khai phá ứng dụng, những điểm chìa khóa để mở lối vào những mảnh đất màu mỡ này vốn đều nằm trong ca phú cổ rồi chỉ cần chúng ta nghiền ngẫm cho kỹ càng. Ông Tử Vân cũng từ một câu phú mà khai thác vào Thái Tuế để khai sáng ra một chân trời mới về du nạp thêm thông tin đầu vào cho ứng dụng giải đoán Đẩu Số. Cụ Thiên Lương cũng khai phá nhiều điểm đặc biệt về Thái Tuế. Hy vọng rằng, sau này trong số anh chị em học viên ở đây cũng sẽ có người khai phá được một khía cạnh ứng dụng nào đó trong Đẩu Số.
Luận về Mệnh Thân và ảnh hưởng của Thái Tuế
(Thái Tuế nhập Quái)
Có thể ứng dụng quan niệm [Biểu, Lý] trong lý luận của Đông Y để mà giải thích về Mệnh lý đẩu số đối với Mệnh Thân và tác dụng của Thái Tuế (QNB chú: theo Đông Y thì cặp [Biểu, Lý] gắn liền với lý luận cặp Âm Dương, Biểu là biểu lộ bày tỏ biểu hiện ra bên ngoài, Lý là nội tại ở bên trong). Cách cục của Mệnh Thân hình thành bộ khung và phong cách biểu hiện của một cá nhân, cho nên nó thuộc về [Biểu], còn cung vị Thái Tuế ví như sự ảnh hưởng mạnh tới mức độ nào đó, thường thường là động lực căn bản của các mưu đồ hành vi tư tưởng, mà cái động lực căn bản đó chính là thông qua biểu hiện tác phong hành sự của Mệnh Thân cung mà biểu lộ ra bên ngoài. Cho nên, ảnh hưởng của cung vị Thái Tuế thuộc về [Lý].
Trong kinh tế học có câu danh ngôn nói [sự vận động của kinh tế, chính là bị thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó], thực ra thì đối với mệnh lý mà nói, sự hưng suy khởi phục của cả cuộc đời một cá nhân, cũng là một phần thuộc về ở tự bản thân mình điều tiết, nhưng vừa tự điều tiết vừa có sự thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó.
Tương tự thì loại [cung vị Thái Tuế] thuộc về cung vị có tính ẩn tàng của [Lý], cách cục tinh diệu của nó chính là như bàn tay vô hình tự điều tiết kia. Vô hình trung mưu chước thao túng lại thông qua Mệnh Thân cung và vận trình đại hạn mà xuất hiện phong cách hành sự. Đối với biểu hiện hành vi của một đương số thì cách cục cung vị Thái Tuế có ảnh hưởng tác dụng mang tính mấu chốt.
Đây là một hạng mục quan niệm, trên thực tế, cùng loại này thuộc về ảnh hưởng tác dụng của [Lý] lại vốn có ảnh hưởng của tính chất mấu chốt của cung vị có tính chất đặc biệt, [cung vị Thái Tuế] chỉ là một trong số đó, cũng không phải là cung vị duy nhất.
(Trích từ “Đẩu Số đàm Phụ Mẫu tình” của Tử Vân, P036)
Trước khi vận dụng “Thái Tuế nhập quái tượng”, đối với với tính chất tác dụng của Thiên Can năm sinh và Thiên Can vốn có của cung vị, nếu sử dụng quan niệm “Biểu Lý” của Đông Y để mà thuyết minh, thì Thiên Can năm sinh chính là “Biểu”, còn Thiên Can cung vị chính là “Lý”. Tác dụng ảnh hưởng của “Biểu” thường thường biểu hiện qua những xử sự cá nhân của chỗ Thái Tuế của người ấy tọa thủ, còn biểu hiện của “Lý” chính là đem Thái Tuế nhập cung và giữa nó với mệnh tạo (đương số) sản sinh ra một mối quan hệ hỗ động lợi hại ghê gớm ở một mức độ nào đó thì biểu thị cho thấy tình hình.
Lấy mệnh bàn của ông chủ Lâm (nam mệnh, nông lịch năm 1936 tháng 2 ngày 7 giờ Tị) làm ví dụ để thuyết minh. Năm Giáp Thìn (1964) sinh con trai, cùng với phụ thân anh ta sống chung với nhau, thân tình giữa cha con không hề sút kém, chẳng qua là trong sự tham gia công việc nhà máy với phụ thân anh ta sau này thì cách xử sự e rằng hiếm khi thấy nhận được sự đồng thuận của cha anh ta. Rồi năm Bính Ngọ (1966) sinh con gái, vì năm sinh có can Bính khiến cho Liêm Trinh hóa Kị tại Tuất là Mệnh cung của cha cô ta, cung Tuất lại xung hội vào Ngọ và Thìn có chư sát tinh, hơn nữa lại có cả Kình Đà của năm Bính tại Ngọ và Thìn cung. Bởi vậy đối với mối quan hệ thân tình cha và con gái xem ra biểu hiện dường như không thể nào mà tốt đẹp được. Nhưng bởi vì cung Ngọ vốn có Thiên Can khiến cho Liêm Trinh hóa Lộc vào Tuất là Mệnh cung, và Phá Quân hóa Quyền tại Thân là Thân cung, còn Vũ Khúc hóa Khoa ở Dần cung là cung Quan Lộc. Bởi vậy mà cô ta đi làm ở nhà máy của cha mình, biểu hiện công tác của cô thường nhận được sự ưng thuận đồng tình trọn vẹn.
(Trích từ “Đẩu số luận tử nữ” của Tử Vân, P256).
Thái Tuế của người khác nhập cung, nếu như các tinh diệu cấp Giáp ở chỗ sở tọa của Thái Tuế cùng với tinh diệu của cung Mệnh của đương số tạo thành hiện tượng sinh khắc khác biệt, tương sinh thì hợp, tương khắc thì không hợp.
(Trích từ “Đẩu số luận Tử Nữ” của Tử Vân, P256).
———–
B, Cách Cục
Cách Cục là cái Cách mà các tinh đẩu (từ 14 Chính Tinh an theo Cục số cho đến các Phụ Tinh) được phân bố tại cung vị nào đó, tạo nên Cục diện mang tính chất đặc trưng điển hình như giàu có, quyền quý, nghèo hèn…
Một Cục diện tốt đòi hỏi các tinh đẩu phải đắc Thời đắc Vị, tức là các sao cần đứng ở nơi đắc miếu, cần phải có khí lực mạnh mẽ, Chính Tinh được rồi thì còn cần phụ tinh phò tá mới hữu lực, có Tam Kỳ (Khoa, Quyền, Lộc) tề tựu đủ – đúng vị trí – thời điểm (ví dụ như người sinh vào thời điểm năm Giáp Ất mộc mà Mệnh an ở đất mộc là Dần Mão có Hóa Lộc thì gọi là chỗ “sinh thành chi Lộc”, rất hợp thời vị), các tinh đẩu cần đi theo bộ cùng tính chất hòa hợp với nhau, ở chỗ sinh vượng địa hoặc cục thế vận hạn di chuyển đến chỗ sinh vượng của Cục số,…
Như vậy, Cách Cục chính là các kết cấu, cách bài bố và vận hành của Mệnh – Vận, thông qua không gian và thời gian để dựa vào cục diện đó mà phân tích thông tin, dự đoán cát hung cho số phận của con người trong môn Tử Vi Đẩu Số. Kết cấu cách cục Chính Tinh trên mệnh bàn còn được phân chia theo tính Âm-Dương Động-Tĩnh và khí lực ngũ hành vượng suy của các tinh đẩu.
Nói về âm dương của Cục số để an Tử Vi, ta thấy rằng, đối với các Dương Cục là 3 (mộc), 5 (Thổ), thì khởi điểm của Tử Vi luôn luôn tại cung Dương, tương ứng là Thìn, Ngọ. Còn đối với các Âm Cục là 2 (thủy), 4 (Kim), 6 (Hỏa), thì khởi điểm của Tử Vi luôn luôn tại cung Âm là Sửu, tương ứng là Sửu, Hợi, Dậu.
Chòm sao Tử Vi và chòm sao Thiên Phủ được xem như Lưỡng Nghi trên thiên bàn. Trong đó, chòm Tử Vi được coi như là nghi Dương, chòm Thiên Phủ được coi như là nghi Âm.
Khi số ngày trong tháng tăng dần (1, 2,… 30) thì chòm Tử Vi, dẫn đầu là sao Tử Vi sẽ vận hành chuyển động theo chiều thuận. Đồng thời thì chòm Thiên Phủ, dẫn đầu là sao Thiên Phủ sẽ vận hành chuyển động theo chiều nghịch. Đây chính là quy luật tiến thoái, thuận nghịch của âm dương. Mỗi khi vận hành, thay đổi vị trí thì hai chòm này tạo thành các thế đứng của các chính tinh với các cách cục khác nhau.
Lưu ý, chiều vận hành của 2 chòm sao nói trên là chiều vận động của cả chòm, còn thứ tự của từng sao trong từng chòm lại tính theo chiều ngược lại. Như, sao Tử Vi đứng đầu chòm Tử Vi, thứ tự lần lượt tiếp theo là Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh; sao Thiên Phủ đứng đầu chòm Thiên Phủ, thứ tự lần lượt tiếp theo là Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Phân chia theo Động – Tĩnh, thì đối với 14 chính tinh người ta chia ra thành 2 nhóm chính:
* nhóm có tính Động gồm: Tử Phủ Vũ Tướng Liêm Sát Phá Tham.
* nhóm có tính Tĩnh gồm: Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật.
Nhóm các sao có tính Động thì gọi là các “cương tinh”, còn nhóm các sao có tính Tĩnh thì gọi là các “nhu tinh”. Trong sự vận động của Lưỡng Nghi là 2 chòm Tử Phủ thì các cương tinh luôn luôn kết hợp đồng cung với nhau, còn các nhu tinh thì luôn kết hợp đồng cung với nhau.
Trong nghiên cứu của cụ Thiên Lương đã phân chia động tĩnh của các chính tinh này thành một hình thức cụ thể hơn là:
1. Động tính (thực hành, hành động) 100% gồm: Sát Phá Tham Liêm.
2. Động tính (thực hành, hành động) 60%, Tĩnh tính (lý thuyết) 40% gồm: Tử Phủ Vũ Tướng.
3. Động tính (thực hành, hành động) 40%, Tĩnh tính (lý thuyết) 60% gồm: Cự Nhật.
4. Tĩnh tính (lý thuyết) 100% gồm: Cơ Nguyệt Đồng Lương.
Bốn nhóm này, cụ Thiên Lương gọi là Tứ Tượng, và nhóm nặng tính hành động (1., 2.) thì gọi là nhóm Dương, còn nhóm nặng tính lý thuyết tính lý thuyết thì gọi là nhóm Âm, hai loại này cụ Thiên Lương coi là Lưỡng Nghi.
Tôi giới thiệu sơ lược về cách phân chia âm dương động tĩnh như thế để mọi người nắm được cái tinh thần quan trọng của tính nhị nguyên trong môn Tử Vi Đẩu Số. Tác dụng của chúng, dù cát hay hung thì, nhóm có tính Động là gây ra ảnh hưởng mang tính nhanh, cường độ mạnh, sự kiện rõ rệt ít biến hóa,… còn nhóm có tính Tĩnh thì gây ra các ảnh hưởng mang tính chậm rãi, cường độ vừa phải, sự kiện nhiều biến hóa,… Thông qua đây, mọi người sau này có thể tự mình phân tích tính chất tương tự đối với Lục Cát, Lục Sát và các yếu tố khác trong Tử Vi. Nắm vững điều này để có thể luận giải tổng quát lá số và chi tiết về vận hạn cát hung.
Đến đây thì chúng ta đã biết được rằng, nhóm các cương tinh (tính Động) luôn kết hợp đồng cung với nhau, nhóm các nhu tinh (tính tĩnh) luôn kết hợp đồng cung với nhau, theo đó chúng ta có thể suy luận được về bố cục trên thiên bàn:
Các tinh đẩu cùng Tính thì chỉ có thể ở các thế đứng đồng cung, tam hợp chiếu, xung chiếu hoặc cách nhau một số lẻ cung, không bao giờ ở giáp cung với nhau.
Các tinh đẩu khác Tính thì không thể đồng cung hay xung chiếu, tam hợp chiếu với nhau. Chỉ có thể giáp cung hoặc cách nhau một số chẵn cung.
…
Các Cách Cục cũng phân chia thành Thượng Cách (hay còn gọi là Chính Cách) và kém hơn một chút gọi là Thứ Cách, được nhiều điểm có tính chất ưu việt cho cục diện tốt thì ta gọi là Thượng Cách, nếu được ít hơn thì gọi là Trung Cách (còn gọi là Thứ Cách). Nếu ở nơi Tử Tuyệt, sao lại lạc hãm, không có cát hóa, không có cát tinh, lại gặp sát hung tụ hội thì gọi là Hạ Cách.
Thí dụ, người sinh năm Tân Ất mà Mệnh an tại Mão cung, có Cự Cơ thủ mệnh lại gặp Tả Hữu Xương Khúc thì là thượng cách, như người tuổi Bính thì là thứ cách, người tuổi Đinh thì cũng chủ bình thường, ngoài ra cung phận mà không ở đó (Mão) thì không luận như vậy.
Ngoài ra, nếu như một Cách Cục tốt đẹp đã được thành lập, nhưng lại bị Không Vong hay các sát tinh không hợp đến xâm phạm làm hỏng hoặc suy giảm đi tính chất tốt đẹp thì được gọi là Phá Cách.
Thí dụ, Mệnh hay Điền, Tài cung, mà có Thiên Phủ tại Mùi gặp Tả Hữu Xương Khúc, lại có Nhật Nguyệt giáp ở hai bên gọi là cách “Nhật Nguyệt giáp Tài”, nhưng có Không Vong án ngữ ở Ngọ Mùi thì sẽ khiến cho Cách Cục trên bị rơi vào Phá Cách.
Bên cạnh đó, đối với một cách cục vốn có tính chất xấu, nhưng lại có sự cát hóa bởi Tam Kỳ và các cát tinh, khiến cho các tính chất của Cách Cục lại phản chuyển thành tốt đẹp, thì được gọi là Phản Cách.
Thí dụ, Mệnh có Thiên Đồng ở cung Tuất là cách xấu, trong 4 sao của Cách Cục này thì có Cơ Nguyệt Đồng toàn hãm (Thiên Đồng tọa bản cung) chỉ có Thiên Lương được đắc miếu. Nhưng nếu người mà sinh vào năm Đinh thì ba sao đang phản bối kia đều đồng loạt hóa cát, Nguyệt hóa Lộc, Đồng hóa Quyền, Cơ hóa Khoa.
Lại có một dạng Phản Cách nữa, đối với một cách cục vốn có tính chất xấu, nhưng nhờ có các Không Vong hay thêm Hóa Kị mà biến đổi theo cái lý biến dịch là “vật cực tắc phản”, “cùng tắc biến”, “biến tắc thông”. Tuy nhiên, các phản cách này xét cho tường tận các phụ tinh cát và vận trình mới được, nếu không rất dễ sai lầm.
Thí dụ, “Mệnh Vô Chính Diệu gặp Tam Không”, “Liêm Tham Tị Hợi ngộ Tuần hoặc Kị”, “Tham Lang cư Tý ngộ Triệt Tuần”, “Cơ Âm Diêu Hồng ở Dần Thân ngộ Tuần Triệt”, “Âm Dương ở Sửu Mùi gặp Không Vong hoặc Kị”,…
Dưới đây, xin giới thiệu về 49 Cách cơ bản, được phân chia thành 4 Cục:
I. Phú cục (Nhóm các cách giàu có)
1.Tài Ấm giáp Ấn (Tài tinh và Ấm tinh giáp với Ấn tinh)
Cung Mệnh hay cung Điền, Tài có Tướng sáng sủa tốt đẹp tọa thủ, có Lương giáp cung (Ấm tinh là tên riêng của Thiên Lương cũng như Thiên Ấn là tên riêng của Thiên Tướng). Bên giáp còn lại có Cự Môn hóa Lộc năm Tân.
2. Phủ Ấn củng Thân (Phủ Ấn củng chiếu cung an Thân)
Cung an Thân có Phủ, Tướng (hội cát tinh) hợp chiếu.
3. Kim xán quang huy (Ánh sáng vàng của mặt trời xán lạn)
Cung Mệnh hay cung Điền, Tài an tại Ngọ, có Nhật tọa thủ.
4. Nhật Nguyệt giáp Tài (Nhật Nguyệt giáp với Tài tinh)
Cung Mệnh hay cung Điền, Tài an tại Sửu có Tham, Vũ tọa thủ đồng cung. Hay tại Mùi có Phủ tọa thủ, có Nhật, Nguyệt giáp cung. (Tài tinh là tên riêng của Vũ Khúc vì Vũ Khúc chủ tiền bạc).
5. Nhật Nguyệt chiếu bích (Nhật Nguyệt cùng chiếu vào bức vách)
Cung Mệnh hay cung Điền, Tài an tại Sửu, có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Mùi xung chiếu; hay an tại Mùi có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Sửu xung chiếu.
6. Tài Lộc giáp Mã (Tài tinh và Lộc tinh giáp với Thiên Mã)
Cung Mệnh hay cung Điền, Tài có Mã tọa thủ, có Vũ, Lộc giáp cung.
II. Qúy cục (có danh chức, quyền qúy)
1. Kim dư phù giá (Phù trợ bên xa giá xe vàng của vua)
Tử Vi sáng sủa tốt đẹp tọa thủ tại cung Mệnh, hay Quan Lộc có Tả, Hữu, Thiếu Dương, Thiếu Âm giáp cung, nên ví như xe vàng phò vua
2. Tử Phủ triều viên (Tử Phủ chầu cung viên)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Tử Vi sáng sủa tốt đẹp tọa thủ và có Phủ chiếu, hay có Phủ sáng sủa tốt đẹp tọa thủ và có Tử Vi chiếu.
3. Phụ Bật củng Chủ (Phụ Bật củng chiếu Chúa tinh)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Tử Vi sáng sủa tốt đẹp tọa thủ có Phụ – Bật hợp chiếu.
4. Quân thần khánh hội (Vua tôi mừng xum họp)
Cùng như trên, nhưng có thêm đủ bộ Xương, Khúc, Khôi, Việt, Long, Phượng hội hợp.
5. Phủ Tướng triều viên (Phủ Tướng chầu cung viên)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Phủ sáng sủa tốt đẹp tọa thủ và có Tướng chiếu hay có Tướng sáng sủa tốt đẹp tọa thủ và có Phủ chiếu.
6. Vũ Khúc thủ viên (Vũ Khúc thủ cung viên)
Vũ thủ Mệnh viên tại Mão.
(QNB chú: đã đối chiếu với TVĐS Toàn Tư và các tài liệu khác, đúng là tại cung Mão, tuổi Canh có Tam hóa liên châu).
7. Cự Cơ Mão Dậu (Cự Cơ ở cung Mão cung Dậu)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Mão, Dậu, có Cự, Cơ tọa thủ đồng cung.
8. Thất Sát triều Đẩu (Thất Sát chầu về Tử Vi)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Dần, Thân có Sát tọa thủ và có Tử, Phủ (đồng cung) xung chiếu.
9. Tham Hỏa tương phùng (Tham Hỏa gặp gỡ)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Tứ Mộ, có Tham tọa thủ gặp Hỏa đồng cung.
10. Nhật xuất Phù Tang (Mặt trời mọc ở xứ Phù Tang)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Mão, có Nhật tọa thủ.
11. Nguyệt lãng Thiên Môn (Trăng sáng ở cửa trời)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Hợi có Nguyệt tọa thủ (Hợi thuộc quẻ Kiền là biểu tượng của Trời nên gọi là Thiên Môn).
12. Minh Châu xuất hải (Ngọc sáng xuất hiện trên biển)
Coi Qúy cục 13. dưới đây.
13. Nguyệt sinh thương hải (Trăng sáng ở biển xanh)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Tý, có Nguyệt tọa thủ (Tý thuộc quẻ Khảm là biểu tượng của nước, của biển cả, nên gọi là thương hải).
14. Nhật Nguyệt đồng lâm (Nhật Nguyệt cùng đến)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Sửu, có Nhật Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Mùi xung chiếu; hay an tại Mùi có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Sửu xung chiếu.
(Cách này giống với cách “5.Nhật Nguyệt chiếu bích” ở Phú Cục, chính là điều sách nói “Nhật Nguyệt đồng độ xét đối cung”.)
15. Nhật Nguyệt tịnh minh (Nhật Nguyệt cùng sáng rạng rỡ)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Sửu có Nhật tọa thủ tại Tỵ và Nguyệt tọa thủ tại Dậu hợp chiếu hay an tại Mùi có Nhật tọa thủ tại Mão và Nguyệt tọa thủ tại Hợi hợp chiếu.
(Chỗ “Nguyệt tọa thủ tại Dậu” trong sách viết nhầm là “Nguyệt tọa thủ tại Hợi”).
16. Nhật Nguyệt giáp Mệnh (Nhật Nguyệt giáp cung Mệnh)
Coi Phú cục 4 nhưng đây là có danh chức quyền qúy
17. Lộc Mã bội Ấn (Lộc Mã tô điểm cho Ấn)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Thiên Tướng sáng sủa tốt đẹp tọa thủ, có Lộc, Mã giáp cung.
(QNB chú: hoặc Mệnh, Quan ở Dần Thân có Vũ Tướng đồng cung với Lộc Mã).
18. Hình Tù giáp Ấn (Hình tinh và Tù Tinh giáp với Ấn tinh)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Ấn tọa thủ, có Hình, Liêm giáp cung (Hình là tên riêng của Kình Dương, cũng như Tù là tên riêng của Liêm Trinh).
(QNB chú: Liêm với Tướng không bao giờ ở giáp cung cả, chỉ có thể hiểu chữ “giáp” ở đây nghĩa là đứng cạnh nhau trong một cung ở Tý/Ngọ, có Kình Dương đồng cung).
19. Mã đầu đới kiếm (Đầu ngựa treo kiếm)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Ngọ, có Kình tọa thủ, có Hình, Mã hợp chiếu, nên ví như đầu ngựa có mang thanh kiếm.
(QNB chú: cách này muốn cát thì Kình cư Ngọ phải đồng cung với Đồng Âm, là người tuổi Bính tuổi Đinh, thêm Phượng Các và Giải Thần càng tốt, được quý cách nhờ cát hóa. Nếu không thì là hung cách).
20. Kình Dương nhập miếu (sao Kình Dương ở chỗ miếu địa)
Cung Mệnh hay Quan Lộc an tại Tứ Mộ, có Kình tọa thủ. Tốt đẹp đối với tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
21. Tọa Qúy hướng Qúy (Ngồi ở chỗ quý nhân mà nhìn về hướng quý nhân)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Khôi tọa thủ và có Việt chiếu, hay có Việt tọa thủ và có Khôi chiếu.
22. Văn Tinh ám củng (Văn tinh ám hợp, củng chiếu)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Xương tọa thủ và có Khúc chiếu, hay có Khúc tọa thủ và có Xương chiếu. Nếu gặp thêm Khôi, Việt, Tuế hội hợp lại càng rực rõ
23. Khoa Quyền Lộc củng (Được cả Khoa, Quyền, Lộc củng chiếu)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Khoa, Quyển, Lộc hội chiếu
24. Qụyền Lộc sinh phùng (Được gặp Quyền, Lộc tương trợ cho)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Quyền, Lộc, Sinh tọa thủ đồng cung.
25. Khoa minh Lộc ám (Khoa sáng, Lộc ngầm trợ)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Khoa tọa thủ và có Lộc nhị hợp hay có Lộc tọa thủ và có Khoa nhị hợp.
26. Minh Lộc ám Lộc (Lộc sáng, Lộc ngầm trợ)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Hóa Lộc tọa thủ và có Lộc Tồn nhị hợp, hay có Lộc Tồn tọa thủ và có Hóa Lộc nhị hợp
27. Tài Ấn giáp Lộc (Tài tinh và Ấn tinh giáp với Lộc tinh)
Cung Mệnh hay Quan Lộc có Lộc tọa thủ, có Vũ, Tướng giáp cung.
III. Bần tiện cục (nghèo hèn)
1. Sinh bất phùng thời (Sinh ra không gặp thời)
Liêm thủ Mệnh tại Dần Thân gặp Tuần, Triệt án ngữ.
2. Nhất sinh cô bần (Một đời cô đơn ngèo khó)
Phá thủ Mệnh tại Dần, Thân gặp nhiều Sát tinh mờ ám xấu xa xâm phạm.
3. Tài dữ Tù cừu (Tài tinh với Tù tinh là thù địch)
Vũ hay Liêm mờ ám xấu xa thủ Mệnh, gặp nhiều Sát tinh xâm phạm.
4. Nhật Nguyệt tàng hung (Nhật Nguyệt tàng ẩn cái hung)
Nhật, Nguyệt mờ ám xấu xa thủ Mệnh, chiếu Mệnh hay giáp Mệnh.
5. Quân tử tại dã (Người quân tử phải ở chốn thôn dã, quê mùa)
Mệnh có nhiều Sát tinh mờ ám xấu xa hội hợp.
6. Lộc phùng lưỡng sát (Lộc tinh gặp cặp sát tinh)
Lộc Tồn hay Hóa Lộc thù Mệnh, gặp Không, Kiếp đồng cung.
7. Lưỡng trùng hoa cái (Cả đôi bị hại)
Coi Bần tiện cục 6. ở trên.
8. Mã lạc Không Vong (Mã lạc vào chỗ Không Vong)
Mã thủ Mệnh gặp Tuần, Triệt án ngữ.
IV. Tạp cục
1. Cẩm thượng thiêm hoa (Áo gấm được thêu thêm hoa)
Cung Mệnh, Thân sáng sủa tốt đẹp, vận hạn lại rực rỡ, nên ví như gấm thêu hoa.
2. Phong vân tế hội (Gió mây gặp gỡ, vận hội hanh thông)
Cung Mệnh, Thân mờ ám xấu xa, nhưng vận hạn lại rất tốt đẹp nên ví như rồng mây gặp hội.
3. Khô mộc phùng Xuân (Cây khô gặp được mùa xuân)
Cung Mệnh, Thân xấu xa mờ ám, nhưng vận hạn lại tốt đẹp, nên ví như cây khô gặp mùa xuân, tuy vậy, không được toàn mỹ như Phong Vân Tế Hội.
4. Y cẩm hoàn hương (Áo gấm về quê)
Lúc ít tuổi vất vả lật đật vì gặp hạn xấu xa, nhưng về già lại an nhàn khá giả vì gặp hạn tốt đẹp, vậy cho nên thường ví như mặc áo gấm về làng.
5. Thủy thượng giá tinh (Ánh sao trên nước)
Hạn một năm tốt rồi lại một năm xấu, không đều đặn, nên ví như bóng sao chập chờn trên mặt nước.
6. Cát Hung tương bán (Lành dữ mỗi thứ một nửa)
Cũng như trên, nhưng đôi khi cứ nửa năm hành thông rồi lại nửa năm bế tắc.
7. Bộ số vô y (Bước nhảy của số trong hạn không nương theo nhau)
Vận hạn trước sau, xấu tốt không rõ rệt, may đi liền với rủi, kéo dài liên miên, nên ví như người ốm đi bộ lâu mà không tìm thấy thầy thuốc.
8. Lộc xung Mã khốn (Lộc bị sát tinh xung, Mã bị vậy khốn)
Hạn gặp Sát, Lộc, Mã hội hợp và Tam Không xâm phạm, Lộc, Mã bị nguy khốn nên coi là hạn xấu.
Phụ luận
– Phú cục và Qúy cục trình bày sơ lược ở trên rất cần phải xa lánh Tuần, Triệt, Sát tinh và Bại tinh. Ngoại trừ Qúy cục 9, 16, 22 gặp Sát tinh cũng không bị chiết giảm mất sự tốt đẹp. Nếu Sát tinh sáng sủa, dĩ nhiên lại càng thêm rực rỡ.
– Phú cục và Qúy cục rất cần gặp Khoa, Quyền, Lộc hội hợp, như vậy mới được toàn mỹ.
– Bần tiện cục trình bày sơ lược ở trên, nếu gặp Tuần, Triệt án ngữ (không kể Bần Tiện Cục 1, 3) cũng đỡ xấu xa, và nếu gặp chêm nhiều sao sáng sủa tốt đẹp, chắc chắn là trở lại tốt đẹp.
Tóm Tắt các Cách Cục
Thuật số Tử Vi, ảo diệu khôn lường
Bởi tại Âm Dương, Ngũ Hành Động Tĩnh
Cách Cục phân định, xét đến cát hung
Phú Quý Tạp Bần, chia ra tứ cục.
I – Phú Cục sáu cách, xem Mệnh, Điền, Tài.
“Nhật Nguyệt giáp Tài”, “Lộc Tài giáp Mã”
“Nhật Nguyệt chiếu bích”, “Kim xán quang huy”
Giàu có ai bì “Tài Ấm giáp Ấn”
Thân duy nhất cách, “Phủ Ấn củng Thân”.
II – Quý Cục quyền danh, hai mươi bảy cách
Mệnh Quan chính cách, Thân cư thứ chi.
“Tử Phủ triều viên”, “Kim dư phù giá”
“Phủ Tướng triều viên”, “Quân thần khánh hội”
“Phụ Bật củng chủ”, “Vũ Khúc thủ viên”
“Thất Sát triều đẩu”, “Mão dậu Cự Cơ”
“Tham Hỏa tương phùng”, “Phù Tang Nhật xuất”
“Nguyệt sinh thương hải”, “Nguyệt lãng thiên môn”
“Nhật Nguyệt đồng lâm”, “Minh châu xuất hải”
“Nhật Nguyệt tịnh minh”, “Nhật Nguyệt giáp mệnh”
“Lộc Mã bội Ấn”, “Hình Tù giáp Ấn”
“Mã đầu đới kiếm”, “Nhập miếu Kình Dương”
“Tọa Quý hướng Quý”, “Văn tinh ám củng”
“Khoa Quyền Lộc củng”, “Quyền Lộc sinh phùng”
“Minh Lộc ám Lộc”, “Khoa minh Lộc ám”
“Tài Ấn giáp Lộc”, định là Quý Cục.
III – Những kẻ nghèo hèn, thuộc Bần Tiện Cục
Mệnh chính, Thân thứ, tám cách sau đây
“Mã lạc không vong”, “Lộc phùng lưỡng sát”
“Sinh bất phùng thời”, “Nhật Nguyệt tàng hung”
“Nhất sinh cô bần”, “Lưỡng trùng hoa cái”
“Tài dữ Tù cừu”, “Quân tử tại dã”.
IV – Tạp Cục tám cách, có cát có hung
“Thủy thượng giá tinh”, “Cát hung tương bán”
“Phong vân tế hội”, “Cẩm thượng thiêm hoa”
“Khô mộc phùng xuân”, “Hoàn hương y cẩm”
“Bộ số vô y”, “Lộc xung Mã khốn”.
Phú Quý toàn mỹ, tối ái Tam Kỳ
Xa lánh sát tinh, Triệt Tuần cũng kị
Riêng Bần Tiện Cục, lại ái Triệt Tuần
Cát chiếu xa gần, khả dĩ tốt đẹp.
———–
C, Giải đoán 12 cung chức
“Cung chức” là như thế nào?
Thưa, cung chức là định danh chức năng Nhân Sự (con người và sự việc) mà cung đó quản lý, biểu hiện, mô tả. Các định danh chức năng Nhân Sự ấy có thể thí dụ như là: Cung Phụ Mẫu thì quản lý và biểu hiện về mối quan hệ của đương số đối với cha mẹ mình, đồng thời mô tả khái lược về cha mẹ của đương số. Cung Phu Thê thì quản lý và biểu hiện về mối quan hệ của đương số đối với vợ/chồng mình, đồng thời mô tả khái lược về vợ/chồng của đương số,…
Cần phải phân biệt rõ thuật ngữ “cung chức” và thuật ngữ “cung vị” trên lá số trong khi giải đoán. Đối với “cung vị” thì hàm nghĩa nhấn mạnh đến Vị trí từ Tý tới Hợi, từ quẻ Khảm tới quẻ Càn, vị trí trong tam hợp Cục, vị trí theo thời gian, theo mùa, vị trí theo vòng Tràng Sinh,…
Đối với 12 cung chức sau khi bày ra trên lá số Tử Vi đã tạo thành quần thể các mối quan hệ xã hội xung quanh đương số, với cung Mệnh làm trung tâm.
Khi giải đoán cung chức, đối với các sao cần phải lưu ý đến cung vị của nó để mà xét các cách cục cho tinh, đồng thời khi đã thuộc cách an sao và bố cục (thế đứng) của các sao thì từ 1 cung chức và cung vị nào đó, có thể hình dung ra toàn cục chính của lá số với 11 cung chức và cung vị còn lại.
Trước khi đi vào các bước giải đoán 12 cung chức, chúng ta hãy xem lại bài phú Phát Vi Luận (Sự khai mở về cách luận của Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh):
Quan thiên đẩu số dữ Ngũ Tinh bất đồng,
án thử tinh thần dữ chư thuật đại dị.
(Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau,
từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác).
Tứ chính cát tinh định vi quý, tam phương sát củng thiểu vi kỳ;
đối chiếu hề tường hung tường cát, hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.
(Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý, Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp;
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát, cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh).
Cát tinh nhập viên tắc vi cát, hung tinh thất địa tắc vi hung.
(Cát tinh nhập mệnh, miếu đắc thì sẽ cát lợi, hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung).
Mệnh phùng tử vi, phi đặc thọ nhi thả vinh;
Thân ngộ sát tinh, bất đãn bần nhi thả tiện.
(Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa;
Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện).
Tả Hữu hội ư Tử Phủ, cực phẩm chi tôn;
Khoa Quyền hãm ư hung hương, công danh thặng đặng.
(Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm,
Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận).
Hành hạn phùng hồ nhược địa, vị tất vi tai;
lập mệnh hội tại cường cung, tất năng hàng ngoan.
(Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa,
lập Mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ bớt tham lam, ương bướng, ng* d*t).
Dương Đà Thất Sát, hạn vận mạc phùng, phùng chi định hữu hình thương;
Thiên Khốc Tang Môn, lưu niên mạc ngộ, ngộ chi thực phòng phá hại.
(Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương,
Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng trong nhà bị hao tán).
Nam đẩu chủ hạn tất sinh nam,
Bắc đẩu gia lâm tiên đắc nữ.
(Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai,
Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái).
Khoa tinh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần;
Xương Khúc tại nhược hương, lâm tuyền lãnh đạm.
(Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya,
Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi).
Gian mưu tần thiết, Tử Vi, Quý, ngộ Phá quân;
dâm bôn đại hành, Hồng Loan sai phùng Tham tú.
(Tử Vi gặp Phá Quân thì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian,
Hồng Loan gặp (lầm) phải Tham Lang thì hành vi dâm dật).
Mệnh Thân tương khắc, tắc tâm loạn nhi bất nhàn;
huyền ảo tam cung, tắc tà dâm nhi đam tửu.
(Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn,
Ba cung Mệnh Tài Quan mà huyền ảo không sáng sủa thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu).
Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa;
Cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.
(Sát tinh lâm vào tam vị – Phu Thê cung, chắc chắc bất hòa với vợ con,
Cự Môn đến nhị cung – Huynh Đệ cung, thì anh em vô tình vô nghĩa).
Hình sát thủ Tử cung, tử nan phụng lão;
chư hung chiếu Tài bạch, tụ tán vô thường.
(Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già;
Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường).
Dương Đà thủ Tật Ách, nhãn mục hôn manh;
Hỏa Linh đáo Thiên Di, trường đồ tịch mạc.
(Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ,
Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường đời phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ).
Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;
ác tinh ứng Mệnh cung, nô bộc hữu trợ.
(Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
ác tinh ứng vào Mệnh cung thì Nô Bộc có sự tương trợ).
Quan Lộc ngộ Tử Phủ, phú nhi thả quý;
Điền Trạch ngộ Phá Quân, tiên phá hậu thành.
(Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý,
Điền Trạch gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được).
Phúc Đức ngộ Không vong Kiếp, bôn tẩu vô phương;
Tướng Mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.
(Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định,
Tướng Mạo, tức Phụ Mẫu cung, mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được).
Hậu học giả chấp thử suy tường, vạn vô nhất thất.
(Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai).
1, Giải đoán cung Mệnh
Các bước phía trên (phần A, B ) đã nói rất nhiều đến những lý luận để giải đoán cung Mệnh, đồng thời những phần tính lý chung của các sao cũng hầu hết đều dùng cung Mệnh làm đại diện để mô tả tính chất của chúng. Cho nên mọi người cần đọc lại và nắm cho vững, còn trong phần này xin dành để trình bày phần phụ luận cho cung Mệnh với các điểm cần quan tâm như an Mệnh vào Kim Tỏa Thiết Xà và an Mệnh theo giờ Quan Sát.
a, Kim Tỏa Thiết Xà quan.
Về tên gọi thì còn được biết đến với tên gọi là “Kim Xà Thiết Tỏa”, nhưng quả thực tôi cũng không hiểu nghĩa của “Kim Xà Thiết Tỏa” là cái gì, theo tôi suy đoán thì có lẽ do phương pháp truyền khẩu nên đây là một cách gọi lệch đi của “Kim Tỏa Thiết Xà” mà thôi, dần dà cứ gọi nhiều thành quen nên cứ dùng như vậy.
“Kim Tỏa” thì chúng ta vẫn thường biết đến với cụm từ “vòng Kim Tỏa” tức là vòng xiềng xích khóa chặt, vây hãm nguy hiểm,… và “Thiết Xà” nghĩa là con rắn đen, còn chữ “quan” có nghĩa là cửa ải. Vì vậy, “Kim Tỏa Thiết Xà quan” có nghĩa là cái cửa ải nguy hiểm bị bao vây bởi những con rắn đen, hoặc nghĩa là Khóa vàng Rắn sát bao vây.
Cách xác định cung an vào chỗ Kim Tỏa Thiết Xà quan như sau:
Đương tòng Tuất thượng, khởi Tý niên,
Thuận số hành niên, nguyệt nghịch thôi,
Nhật hựu thuận số, thì nghịch chuyển,
Tiểu nhi thọ yểu, khả tiên tri.
(Tuất cung hô Tý đếm theo năm,
Thuận tới niên sinh, nghịch tháng trăng,
Đi thuận ngày sinh, giờ nghịch chuyển
Tiên tri trẻ thọ hoặc yểu chăng).
Phép ấy, theo Tuất cung khởi năm Tý mà đi thuận cho đến Địa Chi năm sinh, (đến cung nào) lại từ đó mà khởi tháng Giêng đếm nghịch tới Tháng Sinh, (đến cung nào lại từ đó mà) khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến Ngày Sinh, (đến cung nào lại từ đó mà) khởi giờ Tý đếm nghịch đến Giờ Sinh.
Nếu cung cuối cùng mà thấy của Nam rơi vào cung Thìn Tuất, của Nữ rơi vào Sửu Mùi thì gọi là rơi vào “Kim Tỏa Thiết Xà quan” (hoặc gọi là sinh vào giờ Kim Tỏa Thiết Xà), rất đáng lo ngại vì từ lúc sinh ra khó nuôi, dễ chết yểu, phải qua 12 tuổi thì mới đỡ lo.
Nếu cung cuối cùng mà thấy của Nam rơi vào Sửu Mùi, của Nữ rơi vào Thìn Tuất thì gọi là Bàng giờ, trẻ tuy là hay ốm yếu khó nuôi nhưng còn đỡ lo ngại về yểu tử hơn là rơi vào chính cửa ải Kim Tỏa Thiết Xà.
Nguyên lý nào dẫn đến hiện tượng này, cho đến nay vẫn chưa được lý giải thuyết phục, chỉ thấy kinh nghiệm của các cụ truyền lại và thực tế có nhiều ứng nghiệm như vậy, thành ra cần phải nghiên cứu thêm nữa.
Lưu ý: Nhấn mạnh trường hợp tính đến cung cuối cùng (lúc tính đến giờ sinh) lại trúng cung an Mệnh mà trùng lặp vào chỗ Thìn Tuất (với Nam), chỗ Sửu Mùi (với Nữ) đồng thời khi tính Kim Tỏa Thiết Xà Quan. Những lá số như thế rất đáng lo ngại. Ngoài ra, khi tính Kim Tỏa Thiết Xà Quan nhưng cung an Mệnh không trùng vào chỗ Thìn Tuất Sửu Mùi thì ít lo ngại hơn, tuy nhiên vẫn thuộc mẫu lá số có nguy cơ cao về yểu mạng, sau 13 tuổi thì đỡ lo. Cách giải là đem bán khoán trẻ cho nhà chùa.
b, Cung lập Mệnh với giờ Quan Sát
Giờ Quan Sát được xác định bằng cách dùng tháng sinh và giờ sinh như:
Sinh tháng Giêng vào giờ Tị,
sinh tháng Hai vào giờ Ngọ,
sinh tháng Ba vào giờ Mùi,
sinh tháng Tư vào giờ Thân,
sinh tháng Năm vào giờ Dậu,
sinh tháng Sáu vào giờ Tuất,
sinh tháng Bảy vào giờ Hợi,
sinh tháng Tám vào giờ Tý,
sinh tháng Chín vào giờ Sửu,
sinh tháng Mười vào giờ Dần,
sinh tháng Một vào giờ Mão,
sinh tháng Chạp vào giờ Thìn.
Đương số rơi vào các trường hợp trên thì gọi là sinh vào giờ Quan Sát, thường hay ốm yếu, bệnh tật, hoặc dễ bị các tai nạn,…
Với cách an Mệnh cung trong Tử Vi thì ta dễ dàng nhận thấy, sinh vào giờ Quan Sát chính là trường hợp cung Mệnh luôn luôn an cố định tại cung Dậu. Và ở vị trí này thì Mệnh cung vĩnh viễn nhị hợp vào cung Tật Ách, luôn trái lý âm dương với nhau. Tam hợp Cục của cung Mệnh thuộc Kim và sinh xuất cho tam hợp Cục của cung Tật thuộc Thủy, khiến cho nguyên khí của Mệnh cung bị tổn hao, suy giảm. Trường hợp này, quả là Mệnh bị coi như là cung Nô của Ách. Nhân gây ra ở Mệnh thì Quả chịu ở Tật Ách.
Tương đồng cái lý của giờ Quan Sát thì ta bắt gặp một số trường hợp đặc biệt chính là “giờ Dạ Đề”.
Cách tính giờ Dạ Đề là:
sinh mùa Xuân vào giờ Ngọ,
sinh mùa Hạ vào giờ Dậu,
sinh mùa Thu vào giờ Tý,
sinh mùa Đông vào giờ Mão.
Trẻ con mà rơi vào các trường hợp này thì rất hay kêu khóc vào đêm (dạ đề), có khi khóc suốt 3 tháng (hoặc 100 ngày) đầu đời.
Như ta đã biết, mỗi mùa gồm có 3 tháng, phân ra làm Mạnh – Trọng – Quý, nếu như xét các tháng Chính giữa mùa là:
Trọng Xuân (chứa điểm Xuân Phân, Mặt Trời ở kinh độ 0 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Hai, sinh vào giờ Ngọ;
Trọng Hạ (chứa điểm Hạ Chí, Mặt Trời ở kinh độ 90 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Năm, sinh vào giờ Dậu;
Trọng Thu (chứa điểm Thu Phân, Mặt Trời ở kinh độ 180 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Tám, sinh vào giờ Tý;
Trọng Đông (chứa điểm Đông Chí, Mặt Trời ở kinh độ 270 độ trên vòng Hoàng Đạo) là tháng Một, sinh vào giờ Mão;
Thì thấy rõ ràng giờ Dạ Đề là một dạng của giờ Quan Sát, chỉ có điều khi xét chung cho cả 3 tháng của một mùa thì ảnh hưởng phân tán nên không bị ảnh hưởng mạnh mẽ như là giờ Quan Sát mà thôi.
Nguyên lý của giờ Quan Sát, giờ Dạ Đề, giờ Tướng Quân, giờ Diêm Vương, đều có thể sử dụng lý luận của Thiên Văn học (mối quan hệ của Trái Đất và Mặt Trời) và lý luận của Âm Dương Ngũ Hành (gốc của Y lý) để giải thích rất dễ dàng.
———–
2, Giải đoán cung Bào (Huynh đệ cung)
Cung Huynh Đệ cho biết mối quan hệ của đương số với anh chị em trong gia đình, tình cảm có hòa hợp hay là xung khắc, có tương trợ cho nhau được hay không, anh chị em được đoàn viên gần gũi hay phải chia lìa phân tán,… Đồng thời dự đoán khái lược về anh chị em có nhiều hay ít, có anh chị em thành đạt hay không, có anh chị em yểu chiết hay không, có anh chị em dị bào (cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha),…
Xem cung Huynh Đệ cần lưu ý kết hợp với cung Phúc Đức vì phúc đức là cái gốc của tình cảm thân thích họ hàng, dẫu cho cung Huynh Đệ có đẹp mà cung Phúc Đức bị sát ám bại tinh tụ họp xung phá thì sự tốt đẹp ở cung Huynh Đệ bị giảm đi khá nhiều, anh chị em có thể thành công nhưng không hòa hợp hay ở gần gũi cùng đương số hoặc ngược lại. Nếu như cung Huynh Đệ bị sát ám bại tinh tụ họp xung phá, nhưng có được cung Phúc Đức tốt đẹp thì kể như là được cứu giải, giảm đi sự hình khắc và ly tán, anh chị em với đương số có thể nương tựa đùm bọc lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau mà phát triển trong cuộc sống.
Xem cung Huynh Đệ cần lưu ý tới vị trí của sao Thiên Cơ, bởi vì sao này là thần chủ quản của cung Huynh Đệ, cho nên tốt hay xấu của sao Thiên Cơ đều có tác động ảnh hưởng tốt hay xấu đến cung Huynh Đệ. Tất nhiên, yếu tố này là phụ luận gia giảm thêm, còn chủ yếu vẫn là xem trực tiếp tại bản cung Huynh Đệ.
Trong câu luận về cung Huynh Đệ ở bài Phát Vi Luận, thì tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có viết:
Cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.
(Cự Môn đến nhị cung – Huynh Đệ cung, thì anh em vô tình vô nghĩa).
Tức là, từ cung Mệnh đếm ngược (nghịch số) thì cung thứ hai (nhị cung) chính là cung Huynh Đệ. Cự Môn là sao đại diện tiêu biểu cho Ám tinh, chủ về thị phi tranh chấp bất hòa, cho nên khi Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh dùng làm điển hình cho trường hợp đóng tại cung Bào thì có sự bất hòa, vô tình vô nghĩa, anh em gây tổn thương cho nhau,… Còn có một chính tinh nữa cũng đáng ngại khi đóng ở cung Bào là sao Phá Quân, vì sao này chủ về hao sát khí, không hòa hợp với lục thân,… Riêng về tranh chấp và hình khắc, còn cần phải kể đến Kình Dương, Thiên Hình và Hóa Kị,… Về cô đơn lạnh nhạt còn phải kể đến Thất Sát, Đẩu Quân, Cô Quả,…
Dĩ nhiên, với các ảnh hưởng tiêu cực của các sao kể trên, là rõ nét nhất khi chúng hãm địa và hội họp với các sát ám tinh khác (cần rất chú ý đến tọa bản cung và xung chiếu).
Còn như khi chúng miếu địa thì cũng giảm thiểu tác động xấu. Tuy vậy, chúng ta lại cũng cần lưu tâm đến câu:
Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao; ác tinh ứng Mệnh cung, nô bộc hữu trợ.
(Các sao tôn quý bày vào chỗ nhược, thì chủ nhân nhiều gian khổ; ác tinh ứng vào Mệnh cung thì Nô Bộc có sự tương trợ).
Hai chữ “tiện vị” ở đây chính là nói đến vị trí nằm ở các cung nhược như Huynh Đệ, Nô Bộc, Tật Ách,… nếu như các sao tôn quý như Tử Phủ Nhật Nguyệt Khôi Việt v.v… mà lạc vào các cung này thì tuy là tốt cho cung ấy, nhưng mà lại đồng nghĩa với Mệnh không được hưởng cách tốt, tuy có được sự tương trợ giúp đỡ từ các nhược cung ấy nhưng vẫn không được coi là phúc.
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Huynh Đệ, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XVI – Huynh đệ” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
3, Giải đoán cung Phối (Phu Thê cung)
Cung Phu Thê cho biết mối quan hệ của đương số với vợ/chồng của mình, tình duyên thuận lợi hay trắc trở, đến mau hay hay muộn, tình cảm nồng thắm hay lạnh nhạt, có được hạnh phúc hay hình khắc,… Đồng thời cung Phu Thê cũng khái lược về một số nét chính của người phối ngẫu của đương số như là người gần hay người xa tới mức dị tộc (ngoại quốc), có được thành công và tương trợ cho sự thành công của đương số sau khi kết phối hay chăng,…
Cung Phu Thê được liệt vào một trong những cường cung (tức là cung có tác động mạnh mẽ đến cuộc đời của đương số), bởi vì theo hình thái xã hội và quan niệm của người xưa thì người nữ lấy chồng là sự trao thân gửi phận, mọi việc đều nhất nhất theo chồng, cuộc đời nương tựa vào người chồng,… còn người nam lấy vợ là sự bắt đầu của duy trì nòi giống, đối với nhà giàu, quyền quý còn là sự liên kết thế lực họ tộc để giữ gìn và tăng cường của cải; đối với những nhà nghèo thì người vợ còn lại hậu phương quán xuyến việc gia đình, buôn bán chăm sóc cho chồng ăn học để đi thi cử,… Ngoài ra, các Âm Dương gia còn chủ trương rằng “cô Âm bất sinh, cô Dương bất trưởng”, vợ chồng chính là cặp Âm Dương, chỉ khi kết phối và hòa hợp thì mới phát triển thịnh vượng được.
Người xưa nói “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống” vì tông tộc họ hàng cùng với nòi giống là những điểm quan trọng của người xưa khi lựa chọn kết phối, gốc gác giống nòi tông tộc mà có thế lực và thông minh khỏe mạnh (gen tốt) thường được ưu tiên lựa chọn hơn. Nhưng quy tắc đó là áp dụng ở phần xét bên ngoài mà không dùng đến lá số.
Vậy ở trong lá số tử vi có dạng quan niệm tương đồng hay không? Thưa, có. Đó là xem cung Phu Thê phải lưu ý kết hợp đồng thời với cung Phúc Đức, cung Mệnh – Thân. Những dấu hiệu tốt xấu của cung Phúc Đức, cung Mệnh – Thân, của đương số đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tốt xấu ở cung Phu Thê của đương số, các cung ấy mà được tốt đẹp thì có thể giải được những điểm hình khắc, trắc trở ở cung Phối của đương số, ngược lại các cung ấy mà xấu thì cũng là giảm đi sự tốt đẹp ở cung Phối.
Xem cung Phu Thê, cần chú ý đến sao Phá Quân và cặp sao Âm Dương (Nhật Nguyệt), bởi vì Phá Quân là thần chủ quản cung Phu Thê, Tử Tức và Nô Bộc, còn sao Thái Âm là tượng của người vợ trên lá số của người nam, và sao Thái Dương là tượng của người chồng trên lá số của người nữ. Tốt xấu của các sao này đều có ảnh hưởng đến tốt xấu của cung Phu Thê. Tất nhiên, đây chỉ là yếu tố gia giảm, chủ yếu vẫn phải xét kỹ ở bản cung Phu Thê.
Trường hợp mà trên lá số người nam lại vừa có tượng người vợ là Thái Âm miếu vượng đóng ở cung Thê, đồng thời hội hợp với Văn Xương hay Văn Khúc thì quá tốt, chúng ta hãy xem ông Tử Vân bình luận:
“Thái Vi phú”:
Thái Âm đồng Văn Xương vu Thê cung, thiềm cung chiết quế
(Thái Âm cùng với Văn Xương ở cung Phu Thê thì như bẻ cành nguyệt quế cung trăng, ám chỉ việc lấy vợ đẹp lại là con nhà danh giá, được nhờ vợ mà công danh thăng tiến).
Hay là như:
Thái Âm hợp Văn Khúc vu Thê cung, hàn lâm thanh dị
(Thái Âm hội hợp với Văn Khúc ở cung Thê thì như giới hàn lâm thanh cao khác thường, cũng ám chỉ tương tự như trên).
Dường như người mà cung Phu Thê có cách cục loại này chẳng những trong đời sẽ lấy được vợ xinh đẹp như các mỹ nhân tiểu thư, mà sau khi cưới được người vợ vượng phu ích tử, khiến cho con đường quan lộ được đắc ý, từng bước thăng tiến cao, việc buôn bán cũng như sự nghiệp đều như chim hồng chim hộc bay cao, của cải sinh sôi dồi dào.
Trở lại câu luận về cung Phu Thê ở bài Phát Vi Luận bên trên, tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có viết:
Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa;
(Sát tinh lâm vào tam vị – Phu Thê cung, chắc chắc bất hòa với vợ).
Tức là, từ cung Mệnh, đếm ngược (nghịch số) đến vị trí thứ 3 thì là cung Phu Thê. Nếu như các hung sát tinh tụ tập mà lại không có sự chế hóa (xem phối hợp với cả cung Mệnh và Thân của đương số) thì đương nhiên sẽ gây ra những bất lợi đối với vấn đề tình duyên đôi lứa của đương số. Như, chậm muộn dở dang, hoặc tình duyên có sự ngang trái bẽ bàng, hoặc sau khi kết phối thì mối quan hệ vợ chồng không được hòa thuận hạnh phúc, hoặc vợ chồng chẳng tương trợ gì được cho nhau trong sự thăng tiến tiền tài sự nghiệp, thậm chí còn gây trắc trở,…
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Phu Thê, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XV – Thê Thiếp hay Phu Quân” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
———–
4, Luận giải cung Tử Tức
Cung Tử Tức cho biết mối quan hệ của đương số với con cái của mình, tình cảm có gắn bó thâm sâu hay không, có lạnh nhạt thờ ơ hay không, con cái có hiếu thuận với cha mẹ (tức vợ chồng đương số) hay không… cung Tử Tức cũng cho biết những thông tin để có thể dự đoán đương số có con hay không, con cái đầy đàn có trai có gái hay là hiếm muộn hay là tuyệt tự, có con trai nhiều hơn hay con gái nhiều hơn, có con dị bào hay không,…
Đối với Nữ mệnh thì Tử Tức là cường cung đã đành, đối với Nam mệnh thì Tử Tức được liệt vào số các cung nhược nhưng mà Thái Thứ Lang đã dặn lại chúng ta không nên coi nhẹ cung Tử bởi vì sách nói:
Mệnh hung nhi cát do hữu Tử cung cát;
Mệnh cát nhi hung do hữu Tử cung hung.
(Mệnh có hung tượng nhưng được cát lợi tốt lành là do có cung Tử Tức cát lành; Mệnh cát nhưng cuộc đời vẫn gặp những việc hung là do cung Tử Tức có hung tượng).
Đây là một điểm quan trọng để nhận thấy rằng cung Tử Tức có vai trò ảnh hưởng không nhỏ đến Mệnh của đương số, chẳng khác gì một số môn phái khác xem trọng trục trực giao Mệnh-Di và Điền-Tử (được coi là 1 dạng “tứ chính”) trong khi luận đoán mệnh lý.
Bởi vậy, khi xem Mệnh cũng cần lưu ý đến việc xem đồng thời cung Tử Tức, ngược lại thì khi xem Tử Tức cũng cần lưu ý xem đồng thời cung Mệnh. Bên cạnh đó cần phải xem kỹ cát hung ở cung an Thân và cung Phúc Đức, bởi vì chúng đều có ảnh hưởng tốt xấu qua lại liên quan chặt chẽ tới nhau. Phúc Đức và Thân đều là những nơi thể hiện khả năng duy trì và tiếp nối dòng dõi giống nòi. Người xưa nói, con cái là quả phúc trời cho, bởi vậy cho nên có đông con nhiều cháu, có con trai để thờ tự tổ tiên sau này và tiếp nối dòng dõi thì mới coi là phúc.
Bên cạnh đó, cũng cần xem cung Phu Thê để phối hợp luận đoán, bởi vì vợ chồng thê thiếp chính là đối tác phối ngẫu của đương số trong việc sinh con đẻ cái, nếu như cung Phu Thê có hung tượng thì cung Tử Tức cũng bị ảnh hưởng. Giả như, khi xét thấy cung Phu Thê có dấu hiệu của sự tan vỡ chia lìa, đồng thời xét thấy cung Tử Tức lại có dấu hiệu của việc có con dị bào, tức thì nó là sự phối hợp tín hiệu thông tin để đưa ra luận đoán có cơ sở hơn rằng đương số dễ bị trục trặc về đường hôn nhân (vợ chồng ly hôn, hoặc vợ chồng có người chết sớm, đi đến sự kết phối với người khác và có hai dòng con (khác mẹ / khác cha).
Xem cung Tử Tức còn cần lưu ý tới sao Phá Quân vì nó là thần chủ quản của cung Tử Tức, vị trí của Phá Quân có cát hung như thế nào đều ảnh hưởng tương ứng liên quan đến cát hung của cung Tử Tức (nếu ai đã từng đọc bài dịch “Chẳng phải hồng hạnh cũng xuất tường” của Durobi thì sẽ thấy ông Tử Vân luận Tử Tức thì ngay lập tức nhìn vào vị trí của Phá Quân để kết hợp cát/hung tượng cho việc đoán về con cái của đương số).
Trong bài phú Phát Vi Luận ở trên thì tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có nói:
Hình sát thủ Tử cung, tử nan phụng lão;
(Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già)
Tức là trong cung Tử Tức mà có các sao chủ về hình khắc và các sát tinh tụ tập tọa thủ và chiếu về thì có mà có được con cái chăm sóc lúc về già. Bởi vì đã hình khắc thì thứ nhất hiếm hoi hoặc tuyệt tự, nhẹ hơn thì chia lìa ly tán nên con cái không thể ở cùng với đương số, nhẹ hơn nữa thì giữa đương số với các con không hòa hợp nên tình cảm lạnh nhạt chẳng thể gần nhau. Đối với việc luận đoán về phân loại giai tầng xã hội thì có thể lấy giới tăng nhân tu sĩ làm điển hình với sự hình khắc về lục thân, trong đó có sự hình khắc con cái, bởi vì những người thuộc giới này đa phần đều coi là số không có con hoặc không gần gũi con hoặc coi tình cảm cha con riêng tư như phù du, cũng có những người tuy không xuất gia chính thống như cũng chẳng thích vướng bận về đường con cái. Cho nên, khi đoán số, cần nắm rõ lý luận để xét xem đương số có xu hướng như thế nào, nhìn vào các cung lục thân như Tử Tức, Huynh Đệ, Phụ Mẫu, Phu Thê mà đều thấy hình khắc thì đó là xu hướng của mệnh tạo cô đơn về già hoặc là có thiên hướng đi tu đạo.
Xem cung Tử Tức cần lưu ý đến tính chất âm dương của cung, tính chất Nam Bắc đẩu của các tinh diệu tọa thủ và hội chiếu. Nếu như có nhiều Nam đẩu tinh tụ tập ở cung Tử Tức mà lại ở trên cung Dương thì sẽ có nhiều con trai, số con trai lớn hơn số con gái trên tổng số con. Nếu như có nhiều Bắc đẩu tinh tụ tập ở cung Tử Tức mà lại là ở cung Âm thì sẽ có nhiều con gái, số con gái lớn hơn số con trai trên tổng số con. Nếu như hai sao Âm Dương (Nhật Nguyệt) mà đóng vào cung Tử Tức thì cần phải xét tính âm dương ở thời gian sinh của đương số để luận đoán xem có hòa hợp hay không. Giả như Thái Dương đóng cung Tử Tức mà lại hãm, trong khi đương số lại sinh ban ngày thì là hung tượng vì âm dương tính không hòa hợp, gây ra dẫn đến sự hiếm muộn hoặc là con cái khó nuôi, sau này cũng khó ở gần,…
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Tử Tức, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XIV – Tử Tức” và mục “XIX – Phụ Luận về Tử Tức” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
5, Luận giải cung Tài Bạch :
Trong hai chữ Tài Bạch, thì chữ Tài nghĩa là tiền bạc, của cải, đủ để người ta hiểu sơ lược về ý nghĩa của cái tên gọi. Còn chữ Bạch nghĩa là lụa là gấm vóc, trong xã hội thời xưa thì đây là một loại hàng hóa có giá trị rất cao, người dùng nó thì thể hiện được vị trí giai tầng của mình, đồng thời nó cũng là tặng phẩm của vua ban cho triều thần hoặc là vật trân quý của những nước chư hầu đem đi cống nạp cho nước lớn,…
Cung Tài Bạch là một trong số các cung quan trọng vào hàng bậc nhất trên lá số, bởi vì ngoài chức năng mà nó đảm nhiệm về phương diện cung chức thì cung Tài Bạch nằm ở vị trí tam hợp vĩnh viễn với cung Mệnh nên những sao tọa thủ ở trong cung Tài Bạch có ảnh hưởng rất mạnh suốt cả cuộc đời con người ta thông qua sự hợp chiếu vào cung Mệnh. Nói cách khác, tốt xấu của cung Tài Bạch có ảnh hưởng trực tiếp đến tốt xấu của cung Mệnh và ngược lại.
Chức năng của cung Tài Bạch là cho biết mối quan hệ của đương số với tiền bạc, tài sản, của cải vật chất trong suốt cuộc đời của mình; cung Tài Bạch còn cho biết hình thức thụ hưởng của cải của người ta là thuộc dạng nào, thông qua lương lậu bổng lộc, qua kinh doanh buôn bán, qua sản xuất trồng trọt, hay được thừa hưởng gia tài từ người khác… Xưa nay, có nhiều người nghĩ đơn giản là xem sự giàu hay nghèo của đương số là cứ nhìn ngay vào cung Tài Bạch xem nó như thế nào, nếu thấy hội tụ nhiều sao chủ về tài lộc và các cát tinh, xa lánh được được các sát hung tinh, Kị tinh, hao bại tinh,… thì liền đoán rằng đương số giàu có. Kỳ thực, điều đó đúng nhưng mà chưa đủ, bởi vì sự giàu nghèo của đương số trong mối quan hệ với tiền bạc, tài sản, của cải vật chất trong suốt cuộc đời không đơn thuần chỉ như vậy, mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác có sự đan xen phức tạp với nhau.
Đó là lý do mà các cụ vẫn thường truyền dạy rằng, xem về giàu nghèo của đương số cần phải chú trọng xem đồng thời đến các cung Phúc Đức, Mệnh Thân và Điền Trạch.
Như, cung Phúc Đức mà tốt đẹp thì mới có phúc phận, có lương duyên để được hưởng những ảnh hưởng tốt đẹp về tài lộc ở cung Tài Bạch; dẫu cho cung Tài Bạch khi đó có mờ ám xấu xa thì vẫn có ý chí thôi thúc đương số lăn lộn trong gian khó để kiếm tiền, sẵn sàng nắm bắt những cơ hội (cơ duyên) trong công việc sản xuất cũng như kinh doanh để kiếm được tiền của. Tức là, vai trò của cung Phúc Đức đối với vấn đề tiền bạc nắm giữ vị trí ảnh hưởng về tinh thần tư tưởng và quan niệm của đương số đối với của cải vật chất, có khát khao kiếm tiền hay không; cung Phúc Đức cũng cho biết đương số có nhiều cơ duyên để kiếm tiền hay không.
Vai trò của cung Mệnh Thân đối với vấn đề giàu nghèo cũng có một phần nào gần giống ở phương diện tư tưởng và quan niệm của đương số về tiền tài vật chất. Thí dụ như người mà Mệnh Thân có cách cục mộ đạo, có xu hướng theo tăng đạo (Đồng Lương Không vong, Cơ Lương Không Vong, Tử Tham mão dậu + Không Vong,…) thì tư tưởng của họ đối với vấn đề tiền bạc vật chất đương nhiên sẽ không có nhiều khao khát gì.
Cung Điền Trạch được quan niệm vừa đồng thời là ruộng vườn để tạo ra của cải từ việc trồng trọt và cũng vừa là cái nhà để chứa tài sản của cải từ mọi hoạt động trồng trọt trên ruộng vườn của mình hay thông qua kinh thương mà có. Bởi vậy, có một số trường phái gọi cung Điền Trạch là Khố (cái kho), là nơi ẩn tàng của tiền tài vật chất.
Chúng ta sẽ rõ hơn nữa sự liên quan phối hợp của các cung này khi xét đến Phú Cục (nhóm các cách biểu hiện sự giàu có), vì nó được nhấn mạnh là xem ở các cung Mệnh, Điền Trạch, Tài Bạch.
Giải đoán cung Tài Bạch còn cần lưu ý đến các sao chủ về tài lộc như Vũ Khúc (hóa khí là Tài, thần chủ quản cung Tài Bạch), Thái Âm (hóa khí là Phú, thần chủ quản cung Điền Trạch) Lộc Tồn (thiên lộc), Thiên Mã (động lực), Hóa Lộc, Thiên Phủ,… Tốt xấu của những sao này đều có ảnh hưởng đến sự thăng giáng về tiền của vật chất đối với đương số, kể cả khi chúng không nằm ở cung Tài Bạch. Ví dụ như trường hợp Lộc Tồn và Thiên Mã gặp phải Không Vong, sách gọi là cách “Lộc đảo, Mã đảo”, người có cách này vẫn có thể giàu có nếu Mệnh Điền Tài đều cường vượng sáng sủa, nhưng thế nào trong đời cũng có lần gặp sự phá bại tiêu tán rất nhiều tài sản, đó là khi hạn xấu mà có thêm Thái Tuế hội hợp Không Kiếp.
Các sao thuộc nhóm Tài tinh thì kị nhất là gặp Không Vong, sau đó là các sát hung tinh, rồi tới các sao Phá Hao Bại Tuyệt. Cho nên, trong phần luận cung Tài Bạch ở bài phú Phát Vi Luận thì tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có nói:
Chư hung chiếu Tài bạch, tụ tán vô thường.
(Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường).
Đây là một dạng cách luận tổng quát, vì tiền bạc tụ tán vô thường thì không có nghĩa là không thể giàu hoặc là không kiếm được tiền. Chỉ có điều tiền bạc kiếm được phải vất vả mới có và khó mà tích lũy thành cự phú mà thôi, hoặc giả có thành cự phú thì cũng rất dễ bị nạn khiến cho có phen phá bại tiêu tán.
Bởi vậy còn nói:
Tài cư Không Vong ba tam lãm tứ.
(Tài tinh, tài cung, mà có Không Vong thì muốn được 3 thì phải làm 4).
Ý nói rằng vất vả, làm cật lực thì cũng vẫn có tiền tài, nhưng so với người khác làm 1 hưởng 1 thì trường hợp này lại phải làm gấp bội phần mới được hưởng được 1 phần.
Cung Tài Bạch ngoài các sao thuộc nhóm Tài tinh thì còn rất ưa các sao thuộc nhóm tĩnh và các sao như Cô Thần, Quả Tú, Mộ, Hóa Kị khi đắc địa ở tứ Mộ cung,… vì nó đều chủ tính chất vun vén tích lũy và có cơ hội được thừa hưởng của cải tiền bạc vật chất.
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Tài Bạch, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XIII – Tài Bạch” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
———–
6, Luận giải cung Tật Ách
Cung Tật Ách cho biết tổng quát khái lược về sức khỏe của đương số, trong đó bao gồm cả các Bệnh mà đương số dễ mắc phải, các Tật mà đương số có thể sẽ có (ví dụ tật nói ngọng, nói lắp,… hoặc cái tính kiêu ngạo, hoặc hay nói tục chửi bậy, cũng được coi là tật xấu,.. hoặc người nào có tính táy máy tắt mắt, thấy cái gì của người khác mà thích là liền nhặt lấy mang về chơi, chẳng hỏi han mượn chủ nhân gì cả, dân gian thường gọi là cái tật ăn cắp vặt,… là thuần túy về tật chứ không coi là bệnh), các khiếm khuyết trên cơ thể vừa thuộc Bệnh vừa thuộc Tật mà thông qua các Tai Ách (hoặc do bẩm sinh) mà đương số có thể bị như điếc, lác, mù, què,… Cung Tật Ách cũng cho biết khái lược về một số điểm thuộc tính cách của đương số (ví dụ như thích ăn diện, thích khoe khoang,…).
Có nhiều Tật biểu lộ ra ngay bên ngoài hình tướng của đương số, vì thế xem cung Tật Ách cần rất lưu ý đến cung xung chiếu vào nó là Phụ Mẫu, ngoài ý nghĩa xung chiếu thì cung Phụ Mẫu còn được gọi là cung Tướng Mạo (do ảnh hưởng của các môn tiền thân của môn Tử Vi Đẩu Số như môn Thất Chính Tứ Dư, Thập Bát Phi Tinh) và nó cũng được lý luận rằng thể chất và sức khỏe của đương số là chịu ảnh hưởng rất nhiều từ di truyền cũng như sự chăm sóc của cha mẹ đương số. Bên cạnh đó, tâm sinh lý của đương số ngay từ bé cũng bị ảnh hưởng rất nhiều từ tâm trạng cũng như cuộc sống của cha mẹ có hạnh phúc hay không.
Ngoài những Tật lộ rõ ra bên ngoài thì cũng có những Tật thuộc dạng kín, khó nhìn thấy bằng mắt thường, mà phải do quan sát tập tính thói quen với quá trình lâu dài, hoặc là ở những nơi kín đáo trên cơ thể mà đương số nói ra,… những cái này thường được gọi là Ám Tật.
Xem cung Tật Ách còn cần lưu ý đến cung Phúc Đức, nếu cung Phúc Đức tốt đẹp sáng sủa thì có thể được thừa hưởng âm đức của tổ tiên mà cứu giảm được bệnh tật tai ách phải gánh chịu. Đồng thời cần kết hợp xem Mệnh Thân cung có tốt đẹp hay không, nếu như có các Quý tinh, Phúc Ấm tinh, các sao giải nạn trừ hung thì cũng đều có khả năng giảm thiểu bệnh tật tai ách ở cung Tật Ách. Riêng trường hợp cung Mệnh mà nhị hợp vào cung Tật Ách, như đã nói ở phần an Mệnh theo giờ Quan Sát trong phụ luận cho cung Mệnh, đây là một trường hợp khá đặc biệt vì chỉ khi Mệnh cung an ở Mão Dậu mới gặp hoàn cảnh này. Tam hợp Cục của Mệnh sinh xuất cho Tam hợp Cục của Tật Ách, khiến cho đương số gần như suốt cuộc đời sống cứ phải trăn trở đau đáu về một loại bệnh hay một cái tật nào đó, như một phần định mệnh của đời mình. Có thể người ta bị bệnh hay ốm đau thường xuyên, nhưng cũng có thể người ta bị một cái tật nào đó ám ảnh cả đời (như sống trong hoài niệm, sống với nỗi sợ về sự đổ vỡ nào đó, sợ bị thất bại, sợ bị mất danh tiếng với người thân và những người xung quanh,…), kiểu như vậy bị coi như Mệnh có phần bị lệ thuộc vào Tật Ách nên theo phương thức xoay cung bàn thì cung Mệnh nằm ở vị trí cung Nô của cung Tật Ách.
Trong phần luận cung Tậc Ách ở bài phú Phát Vi Luận thì tiên sinh Bạch Ngọc Thiềm có nói:
Dương Đà thủ Tật Ách, nhãn mục hôn manh;
(Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ)
Tức là dùng cái lý tổng quát của việc sát tinh hạng nặng xâm phạm vào cung Tật Ách thì có thể gây ra những bệnh tật rất nặng. Thời xưa, bệnh tuy cũng có nhiều nhưng không phân chia tỉ mỉ như ngày nay, và khi đó tứ chứng nan y vẫn là mù què câm điếc. Còn ngày nay thì y học phát triển, từ đó không còn là vấn đề nan giải nhất đối với nền y học hiện đại nữa. Trong Tử Vi thì cụ thể khi Kình Đà xâm phạm Tật Ách cung thì chưa chắc đã đúng là gây ra đui mù, mà nó có thể gây ra những bệnh tật nặng khác hoặc gia tăng cường độ đối với các tai ách mà đương số mắc phải trong đời.
Bởi vậy, khi luận cung Tật Ách, cần phải nắm cho rõ hình tượng của các sao tương ứng với các bộ phận trên cơ thể con người. Hễ gặp sát hung tinh, ám tinh, thì có thể gây ra những hiện tượng bệnh tật tương ứng với tính chất của chúng trên cơ thể đương số.
Cung Tật Ách rất ưa có Không Vong án ngữ, vì chúng giúp cho đương số tiêu giảm tai ách, có bệnh nhanh khỏi,… Bên cạnh đó, cung Tật Ách cũng rất ưa các sao Phúc Tinh và những bộ sao cứu giải như Đồng Lương (đắc miếu), Thiên Quan Thiên Phúc, Ân Quang Thiên Quý, Thiên / Nguyệt Đức, Tam Giải (Thiên / Địa Giải và Giải Thần), Hóa Khoa,… vì chúng đều là các sao trợ giúp trừ hung giải bệnh tật tai ách.
Có một số sao cũng có tính chất giải trừ bệnh tật tai ách, nhưng nếu gặp nhiều sát tinh quá thì lại khiến cho bệnh tật tai ách kéo dài liên miên mãn tính, đó là những sao như Lộc Tồn, Tràng Sinh,… Lại có những sao vốn được người ta cho là cát tinh, nhưng khi luận về Tật Ách thì nó mang thuộc tính trung lập và thường chủ về cường độ ảnh hưởng, như Hóa Quyền và Tả Hữu, nếu những sao này gặp nhiều cát tinh thì sức cứu giải rất nhanh và mạnh, nhưng nếu nó gặp các sát hung tinh thì càng làm cho bệnh tật tai ách thêm nghiêm trọng khẩn cấp.
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Tật Ách, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XII – Tật Ách” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
Khám bệnh qua Lá Số Tử Vi
A. Kiến thức tối giản về TẠNG PHỦ
A1. NGŨ TẠNG
Tạng là các bộ phận cơ thể có nhiệm vụ chuyển hoá và tàng trữ tinh, khí, thần, huyết, tân, dịch. Có 5 tạng: tâm (phụ là tâm bào lạc), can, tỳ, phế, thận.
A1.1. Tâm (Tim)
Tạng tâm đứng đầu các tạng, có tâm bào lạc bảo vệ bên ngoài, phụ trách các hoạt động về thần trí, huyết mạch, khai khiếu ra lưỡi biểu hiện ra ở mặt.
Tâm thuộc Hoả còn sinh Tỳ thổ, khắc Phế kim, và có quan hệ biểu lý với Tiểu Trường (ruột non) hỏa.
A1.2. Can (Gan)
Can chủ về tàng huyết, chủ về sơ tiết, chủ cân (gân, cơ, khớp), khai khiếu ra mắt, vinh nhuận ra móng tay, móng chân.
Can thuộc Mộc còn sinh Tâm hoả, khắc Tỳ thổ, và có quan hệ biểu lý với Đảm (mật) mộc.
A1.3. Tỳ (Lá lách)
Tạng tỳ ở trung tiêu, chủ về vận hoá nước và đồ ăn, thống huyết, chủ cơ nhục và tứ chi, khai khiếu ra miệng, vinh nhuận ở môi.
Tỳ thuộc Thổ còn sinh Phế kim, khắc Thận thuỷ có quan hệ biểu lý với Vị (dạ dày) thổ.
A1.4. Phế (Phổi)
Phế chủ hô hấp, chủ khí, có tác dụng tuyên phát và túc giáng (đưa đẩy khí lên xuống), khai khiếu ra mũi và bên ngoài hợp với bì mao (da lông)
Phế thuộc Kim còn sinh Thận thuỷ, khắc Gan mộc và có quan hệ biểu lý với Đại Tràng (ruột già) kim.
A1.5. Thận
Thận chủ về tàng tinh, chủ cốt tuỷ, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể, chủ nạp khí, chủ thuỷ, khai khiếu ra tai, tiền âm, hậu âm và vinh nhuận ra tóc
Thận thuộc Thuỷ còn sinh ra Gan mộc và khắc Tâm hoả, có quan hệ biểu lý với Bàng Quang thủy.
A2. LỤC PHỦ
Phủ là các bộ phận của cơ thể có nhiệm vụ thu nạp, tiêu hoá, hấp thụ, chuyển vận các chất từ đồ ăn uống và bài tiết các chất cặn bã của cơ thể ra ngoài. Có 6 phủ: đảm, vị, tiểu đường, đại trường, bàng quang và tam tiêu.
A2.1. Đảm (mật) – Mộc
Đởm có quan hệ biểu lý với can, chứa chất mật (tinh chấp) do can bài tiết. Cổ nhân nói: “khí thừa của can tràn vào mật, tụ lại thành tinh chấp”. Mật giúp cho việc tiêu hoá đồ ăn. Chất mật có màu xanh, vàng và vị đắng. Khi có bệnh ở đởm thường xuất hiện chứng vàng da, miệng đắng, nôn mửa ra chất đắng.
Đởm còn có chức năng về tinh thần, chủ về quyết đoán.
Can và đởm có quan hệ biểu lý, can chủ về mưu lự, đởm chủ về quyết đoán là cơ sở của lòng dũng cảm, tinh thần giám nghĩ giám làm. Các bệnh về can đởm hay phối hợp với nhau.
A2.2. Vị (dạy dày) – Thổ
Vị chứa đựng và làm nhừ đồ ăn, đưa xuống tiểu trường. Tỳ và vị có liên quan biểu lý với nhau, đều giúp cho sự vận hoá đồ ăn, nên gọi chung là “gốc của hậu thiên”.
Khí của tỳ vị gọi tắt là “vị khí” dùng để tiên lượng sự phát triển tốt hay xấu của bệnh và dự kiến của kết quả công tác chữa bệnh, nên người xưa có nói: “vị khí là gốc của con người”, “còn vị khí sẽ sống, hết vị khí sẽ chết”.
A2.3. Tiểu Tràng (ruột non) – Hỏa
Tiểu trường có nhiệm vụ phân thanh, giáng trọc. Thanh (chất trong) là chất tinh vi của đồ ăn được hấp thụ ở tiểu trường, qua sự vận hoá của tỳ đem đi nuôi dưỡng toàn thân,cặn bã sẽ được đưa đến bàng quang để bài tiết qua ngoài. Trọc (chất đục) là cặn bã của đồ ăn đựơc tiểu trường đưa xuống đại trường.
A2.4. Đại Tràng (ruột già) – Kim
Đại trường chứa đựng và bài tiết các chất cặn bã, có quan hệ biểu lý với phế.
A2.5. Bàng Quang – Thủy
Bàng quang chứa đựng và bài tiết nước tiểu thông qua sự khí hoà vạư phối hợp của tạng thận.
Nếu sự hoá khí của thận không tốt sẽ gây bí tiểu tiện, đái dắt hoặc đái nhiều lần, tiểu tiện không tự chủ v.v…
A2.6. Tam Tiêu
Tạm tiêu gồm Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu. Thượng tiêu từ miệng xuống tâm vị dạ dày có tạng tâm và phế. Trung tiêu từ tâm vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ tiêu từ môn vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ tiêu từ môn vị dạ dày xuống hậu môn có tạng can và thận.
Sự hoạt động của tam tiêu biểu hiện ở sự khí hoá và sự vận chuyển đồ ăn, ở thượng tiêu: Phế chủ hô hấp, phân bố khí và chất dinh dưỡng vào huyết mạch được tâm khí đưa đi toàn thân; ở trung tiểu tỳ vị vận hoá hấp thu đồ ăn và đưa nước lên phế, ở hạ tiêu có sự phân biệt thanh trọc, tinh tàng trữ ở thận, các chất cặn bã được thải ra ngoài bằng đường đại tiện và tiểu tiện.
Người ta còn nói tam tiêu chủ việc bảo vệ các tạng phủ trong cơ thể.
B. Tiên thiên Bẩm thụ chi khí
Con người ta được bẩm thụ cái khí của Trời Đất trong thai kỳ và được đánh dấu ngay tại mốc thời điểm sinh ra trên đời. Mệnh lý Tứ Trụ dùng 8 chữ mà diễn hóa mối quan hệ sinh khắc hợp hóa hình hại, để lập nên sơ đồ mô phỏng số mệnh của nhân sinh, trải qua cả ngàn năm nay đã có những nghiệm chứng kỳ diệu. Mệnh lý Đẩu Số vốn coi trọng Thái Âm Lịch và mối quan hệ của các tinh đẩu hơn, nhưng tại Địa Bàn vẫn còn những thông tin về Thái Dương Lịch thông qua Bát Tự mà đa phần người ta lãng quên khai thác.
Mệnh lý gia, lương y Khiên Ngưu Tử đã tổng kết rất giản dị về mối quan hệ giữa ngũ hành của các Phủ Tạng và 4 Thiên Can trong Tứ Trụ để mà chẩn đoán sơ lược về sức khỏe của người ta. Phép này đã được truyền cho nhiều bác sĩ Đông Tây Y để có thêm thông tin tham khảo bệnh tại các bước Vọng (trông), Văn (nghe), Vấn (hỏi) trước khi tới bước tối hậu là Thiết (xét mạch). Nay, ta nhắc lại về Ngũ Hành của Thiên Can và đem áp dụng vào lá số Tử Vi đơn giản như sau:
Giáp, Ất thuộc Mộc
Bính, Đinh thuộc Hỏa
Mậu, Kỷ thuộc Thổ
Canh, Tân thuộc Kim
Nhâm, Quý thuộc Thủy.
B1. Xem 4 Thiên Can trong Bát Tự gồm những chữ gì. (Chú ý là Bát Tự phải xác định theo Thái Dương Lịch, tức là theo Tiết Khí).
Ví dụ 1: Kỷ Tị – Ất Hợi – Ất Hợi – Bính Tuất
Thì 4 Can chính là Kỷ, Ất, Ất, Bính.
Ví dụ 2: Kỷ Tị – Tân Mùi – Nhâm Thìn – Ất Tị
Thì 4 Can chính là Kỷ, Tân, Nhâm, Ất.
B2. Xem trong 4 Can ấy bất cập (không đủ) ở Hành gì.
Như trong vd1 thì thấy vắng mặt hành Kim (không có Canh / Tân), và vắng mặt hành Thủy (không có Nhâm / Quý).
Còn trong vd2 thì chỉ vắng mặt hành Hỏa (không có Bính / Đinh).
B3. Đối chiếu Ngũ Hành bất cập với Phủ Tạng và dự đoán.
Như vd1 thiếu Kim, thì tương ứng với các Phủ Tạng là Phế và Tiểu Trường sẽ yếu, tức là dễ phát sinh các bệnh ở phổi, hệ hô hấp, ruột non, và sẽ có các biểu hiện như nói ở thuyết phủ tạng.
Ngoài ra, vd1 còn thiếu Thủy, tương ứng với các Phủ Tạng là Thận và Bàng Quang sẽ yếu, tức là dễ phát sinh các bệnh ở thận, bàng quang, và sẽ có các biểu hiện như nói ở thuyết phủ tạng.
Như vd2 thiếu Hỏa, tương ứng với các Phủ Tạng là Tim và Tiểu Trường sẽ yếu, tức là dễ phát sinh các bệnh ở tim mạch, huyết áp, ruột non, và sẽ có các biểu hiện như nói ở thuyết phủ tạng.
B4. Đối chiếu Ngũ Hành thái quá (dư thừa) với Phủ Tạng và dự đoán.
Ví dụ 3: Giáp Tuất – Ất Hợi – Giáp Thìn – Quý Dậu
Thì tại 4 Can thấy Mộc thái quá (Giáp, Ất, Giáp) khiến cho Gan Mật dễ có vấn đề. Đồng thời bất cập ở hành Thổ (vắng mặt Mậu, Kỷ), dĩ nhiên thổ tại Tỳ Vị đã yếu lại còn bị Mộc vượng đến tương khắc thì loại phủ tạng dễ phát sinh bệnh nhất ở người này là Dạ dày, Lá lách.
B5. Đối chiếu với các tinh đẩu tại Tật Ách cung mà đưa ra kết luận cuối cùng.
Như người mà thái quá ở hành Kim và bất cập ở hành Mộc thì dự đoán sơ lược được Phổi, hệ hô hấp, xương khớp, Đại Tràng, gan mật sẽ có vấn đề.
Khi đối chiếu với cung Tật Ách nếu thấy Nhật / Nguyệt hãm hoặc hội sát tinh thì có thể kết luận là mắt kém, bệnh ở Gan mật khai khiếu ra mắt.
Khi đối chiếu với cung Tật Ách người này, nếu thấy Song Hao thì có thể kết luận Đại tràng có vấn đề, bộ máy tiêu hóa rất kém.
Lưu ý 1: nếu Tên gọi của đương số đồng hành với loại Ngũ Hành bất cập, thì được coi là đã có sự bổ sung, sẽ làm giảm khả năng phát sinh bệnh từ các phủ tạng tương ứng.
Lưu ý 2: khi đương số còn ở tuổi thanh niên, sinh lực sung mãn thì những biểu hiện bệnh ở các phủ tạng sẽ khó để nhận ra / chưa phát tác.
Lưu ý 3: việc dự đoán này chỉ là một hình thức tham khảo thông tin, những vấn đề về sức khỏe và bệnh tật thì nên tới các cơ sở khám chữa bệnh chuyên sâu để xác định.
———–
7, Luận Giải cung Thiên Di
Cung Thiên Di cho biết mối quan hệ của đương số với môi trường xã hội bên ngoài, từ việc đi lại lành dữ ra sao, cho đến những sự giao tiếp đối ngoại cùng người được quý trọng nâng đỡ, hay dèm pha dị nghị như thế nào,…
Nếu ta đứng ở vị trí của Di thì tiến trình và mối quan hệ của các cung bên cạnh cung Di cũng gần như tương tự và ngược lại mối quan hệ ở Mệnh: Khi ta ở bên ngoài xã hội, những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới ta nhất chính là Nô Bộc và Tật Ách, người phò trợ giúp đỡ quan tâm tới ta chính là bạn bè đồng nghiệp (tương tự như Huynh Đệ đối ta còn bé ở Mệnh), bệnh tật có thể hành hạ làm tổn thương ta có thể khiến cho ta vong mạng (tương tự như Phụ Mẫu đã sinh hạ và nuôi dưỡng khi ta còn bé ở Mệnh).
Lại nói, khi quan niệm Mệnh cung là nơi ta ra đời phát sinh mệnh vận thì sau 60 năm cuộc đời sẽ đi đến gặp các sao Thương Sứ để rồi tới cung Di sẽ là nơi ra đi an nghỉ vĩnh hằng.
Nói chung Thiên Di mang ý nghĩa về mối quan hệ ngoại cảnh đối với đương số, nhưng ngoài ý nghĩa cung chức thì sự bố cục ở vị trí đối xung vào cung Mệnh mang ý nghĩa rất lớn đối với việc luận giải lá số.
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh nói:
Đối chiếu hề tường hung tường cát,
Hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.
(Cung đối chiếu cho biết hung biết cát,
Cung hợp chiếu cho biết vinh hoa hay ti tiện).
Sau đó khi luận cung Thiên Di thì tiên sinh lại nói tiếp:
Hỏa Linh đáo Thiên Di, trường đồ tịch mịch.
(Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường đời phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ).
Ta có thể nhận thấy ngay rằng, ở vị trí đối xung vào cung Mệnh nên cung Thiên Di ảnh hưởng trực tiếp cát hung đến cung Mệnh với tác động rất mạnh mẽ rõ rệt. Đồng thời nó cũng biểu thị ý nghĩa cuộc đời con người không chỉ có bó hẹp ở môi trường trong nhà trong gia đình mà còn phải gắn liền với những mối quan hệ bên ngoài xã hội.
Con người ta muốn thành công thì phải học khôn, ở trong gia đình và trường lớp dạy dỗ chưa đủ, cần phải học ở bên ngoài xã hội – trường đời. Cho nên tục ngữ ta có câu “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, và cổ nhân cũng nói “đọc xong một cuốn sách, cần phải đi ra bên ngoài mười dặm” đây cũng là ý nghĩa của câu “học phải đi đôi với hành”. Mà muốn biết khi đi ra bên ngoài lành dữ thế nào thì phải coi ở cung Thiên Di. Nếu như cát tinh phù tá tụ hội, quý nhân tinh xum họp, thì nhất định đi ra bên ngoài sẽ toàn gặp được hanh thông may mắn, được người nâng đỡ ủng hộ, dẫu có gặp nguy cũng có người cứu giúp thành an, những người được yếu tố này đặc biệt dễ thành công. Còn ngược lại, nếu như Kị ám hung sát tinh tụ tập mà chẳng có cát tinh thì đi ra bên ngoài thường vướng phải những thị phi khẩu thiệt, đụng chuyện đã thiếu người giúp đỡ lại còn họa vô đơn chí khiến cho lâm vào bầm dập trong các tai các nạn. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, những người có cung Di xấu không có nghĩa là họ không thể học khôn ở bên ngoài được và khó thành công cũng không có nghĩa là họ sẽ không thể thành công. Bởi vì chúng ta biết rằng, ở trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt của môi trường thì nó sẽ rèn luyện cho con người ta những trải nghiệm, rút ra được những bài học xương máu để mà khôn, sau mỗi lần vấp ngã thì ai dám đứng lên vượt qua được trở ngại thì nhất định sẽ thu được thành tựu. Chỉ có những người không dám vươn lên, không dám đối đầu với khó khăn mới bị sát hung tinh vùi dập cho không thể ngóc đầu lên được nữa mà thôi. Đôi khi người ta phải biết cám ơn các hung sát tinh, vì nó đem lại cho người ta những sự xung kích mạnh mẽ hơn và quyết liệt hơn.
Cung Thiên Di, khi xét đối với mốt sự kiện nhất định nào đó trong vận hạn, người ta vẫn thường lấy coi làm đối phương của đương số (Chủ ở Bản cung, Khách/đối phương ở xung cung), thí dụ như trong việc tỉ đấu cạnh tranh hoặc là ký kết hợp tác thì cũng đều lấy cung đối xung để mà xét xem cát hung như thế nào. Bởi vậy mà sách nói:
Đối phương cát vị chi ngưỡng diện Xuân phong
Đối phương hung vị chi đương đầu ác bổng.
(Cung đối xung mà có cát tinh tụ hội thì như là ngẩng mặt đón gió Xuân tươi mát,
Cung đối xung mà có hung sát tinh thì chẳng khác gì cây gậy hiểm ác chực chờ đập xuống đầu).
Vì vai trò rất quan trọng của vị trí đối với cung Mệnh mà hầu như tất cả các phép luận từ xưa tới nay trong bộ môn Tử Vi đều xét ngay đến cung Thiên Di sau khi xét Mệnh Thân, Phúc Đức:
Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,
phân đối cung chi thể dụng, định tam hợp chi nguyên lưu.
(Thứ nhất khán Phúc Đức, rồi ngay sau đó khảo cứu kỹ Thiên Di,
Phân ra Thể – Dụng với đối cung, xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp).
Đệ nhất biện tân chủ chi phân,
động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
(Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,
Động-Tĩnh tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!)
Tiên quan Phúc Đức, vi tinh thần phúc ấm sở tại.
Thứ khán Thiên Di, vi động tĩnh nội ngoại chi chủ.
Tài Bạch Quan Lộc, định tam hợp phù trì cát hung.
(Trước xem Phúc Đức an bài
Tinh thần tư tưởng, tổ tông ban vì.
Thứ đến xem ở Thiên Di
Tĩnh động, chủ khách, phân ly trong ngoài.
Tài Bạch, Quan Lộc cả hai
Một vòng tam hợp an bài cát hung).
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Thiên Di, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XI – Thiên Di” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
8, Luận giải cung Nô Bộc
Cung Nô Bộc cho biết mối quan hệ của đương số đối với bạn bè, đồng nghiệp, những người trợ thủ giúp việc (chủ yếu là những người dưới quyền, nhưng đôi khi cũng ứng vào cấp trên – lúc này thường là ứng với các sao quý nhân).
Cổ nhân sắp đặt bài bố cung chức Nô Bộc rất khéo léo ở vị trí giữa và giáp với cung Thiên Di, cung Quan Lộc, là hàm ý nhấn mạnh đến mối quan hệ liên kết giữa tính chất sự kiện của các cung này với nhau. Cho nên Phú có câu:
Lộc cư Nô Bộc, túng hữu quan dã bôn trì,
(Lộc cư Nô thì tuy làm quan vẫn vất vả hoặc làm công việc có tính chất chạy đôn đáo ngược xuôi)
Điều này chủ yếu là do bố cục của tinh đẩu với các cung đó thôi, vì khi Lộc Tồn cư Nô Bộc thì Kình Đà xâm phạm vào Thiên Di vào Quan Lộc, đồng thời 2 sát tinh này cùng chiếu vào Mệnh.
Nói như vậy cũng không có nghĩa là cung Nô Bộc chỉ đề cập đến những đối tượng ở bên ngoài, ngược lại nó còn bao hàm đến các đối tượng ở trong nhà, như vợ, thiếp, quản gia, giúp việc,… Ngày xưa, người phụ nữ khi xưng hô một cách khiêm cung thường xưng mình là “Nô gia”, bên cạnh đó, Phá Quân là thần chủ quản cung Phu Thê cũng kiêm quản luôn cung Nô Bộc. Điều này giải thích tại sao có quan điểm cho rằng, khi xét đến người vợ thứ hai trở đi thì xét ở cung Nô Bộc, tuy nhiên đó cũng chỉ là một quan niệm bổ túc cách xem cho cặn kẽ hơn, chứ kỳ thực thì dù là người vợ thứ mấy thì cũng đều xem cát hung ở cung Phu Thê gốc và lưu Phu Thê theo các đại tiểu hạn là chính.
Xem cung Nô Bộc để biết những đối tượng có tương trợ giúp đỡ đắc lực cho đương số hay không, có kề vai sát cánh bền lâu chung thủy hay không, có oán thán trách móc hay phản trắc gây họa cho đương số hay không,…
Từ cung Nô Bộc, cũng phần nào cung cấp cho chúng ta thông tin về nghề nghiệp của đương số. Ví dụ như cung Nô Bộc của người làm giáo sư thường khá sáng sủa nhiều cát tinh ứng với học sinh sinh viên có học vấn. Cung Nô của một người mà có nhiều sát tinh thì cũng có thể người đó làm quản giáo của một trại giam, hay cũng có thể là làm bác sĩ, ứng với nô bộc là phạm nhân hay bệnh nhân của các vị ấy.
Vị trí của cung Nô Bộc, tốt nhất đừng nên ở vào vị trí lục hại với cung Mệnh, vì nó thường khiến cho đương số chịu nhiều thiệt thòi, phải nhường nhịn cho các đối tượng nô bộc, bạn bè đồng nghiệp.
Một cung Nô Bộc tốt thì nên có các cát tinh với các quý nhân tinh, nhưng nếu có sát tinh cũng đừng quá lo ngại, miễn sao sát hunh tinh ấy đừng có khắc hại với Chính Tinh hay cát tinh thủ Mệnh là được. Thí dụ như, cung Mệnh có Nhật hay Nguyệt thì cung Nô đừng nên có Kình Đà, cung Mệnh có Xương Khúc thì cung Nô đừng nên có Hỏa Linh Hóa Kị,… bởi vì như vậy thường sẽ khiến cho Nô Bộc có ảnh hưởng xấu đến Mệnh và Quan, Di của đương số.
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;
ác tinh ứng Mệnh cung, nô bộc hữu trợ.
(Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
ác tinh ứng vào Mệnh cung thì Nô Bộc có sự tương trợ).
Điều này đã từng nói, các cát tinh, các sao tôn quý mà đóng ở cung Nô thì thường cung Mệnh sẽ thường gặp phải ác tinh hoặc các sao hãm địa hoặc gặp phải sát tinh, như thế thì sẽ khiến cho đương số gặp nhiều gian lao vất vả. Tuy nhiên, bù lại thì cung Nô Bộc tốt sẽ có sự hỗ trợ, có sự giúp đỡ đắc lực từ bạn bè đồng nghiệp và nô bộc.
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Nô Bộc, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “X – Nô Bộc” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
———–
7, Luận Giải cung Thiên Di
Cung Thiên Di cho biết mối quan hệ của đương số với môi trường xã hội bên ngoài, từ việc đi lại lành dữ ra sao, cho đến những sự giao tiếp đối ngoại cùng người được quý trọng nâng đỡ, hay dèm pha dị nghị như thế nào,…
Nếu ta đứng ở vị trí của Di thì tiến trình và mối quan hệ của các cung bên cạnh cung Di cũng gần như tương tự và ngược lại mối quan hệ ở Mệnh: Khi ta ở bên ngoài xã hội, những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới ta nhất chính là Nô Bộc và Tật Ách, người phò trợ giúp đỡ quan tâm tới ta chính là bạn bè đồng nghiệp (tương tự như Huynh Đệ đối ta còn bé ở Mệnh), bệnh tật có thể hành hạ làm tổn thương ta có thể khiến cho ta vong mạng (tương tự như Phụ Mẫu đã sinh hạ và nuôi dưỡng khi ta còn bé ở Mệnh).
Lại nói, khi quan niệm Mệnh cung là nơi ta ra đời phát sinh mệnh vận thì sau 60 năm cuộc đời sẽ đi đến gặp các sao Thương Sứ để rồi tới cung Di sẽ là nơi ra đi an nghỉ vĩnh hằng.
Nói chung Thiên Di mang ý nghĩa về mối quan hệ ngoại cảnh đối với đương số, nhưng ngoài ý nghĩa cung chức thì sự bố cục ở vị trí đối xung vào cung Mệnh mang ý nghĩa rất lớn đối với việc luận giải lá số.
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh nói:
Đối chiếu hề tường hung tường cát,
Hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.
(Cung đối chiếu cho biết hung biết cát,
Cung hợp chiếu cho biết vinh hoa hay ti tiện).
Sau đó khi luận cung Thiên Di thì tiên sinh lại nói tiếp:
Hỏa Linh đáo Thiên Di, trường đồ tịch mịch.
(Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường đời phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ).
Ta có thể nhận thấy ngay rằng, ở vị trí đối xung vào cung Mệnh nên cung Thiên Di ảnh hưởng trực tiếp cát hung đến cung Mệnh với tác động rất mạnh mẽ rõ rệt. Đồng thời nó cũng biểu thị ý nghĩa cuộc đời con người không chỉ có bó hẹp ở môi trường trong nhà trong gia đình mà còn phải gắn liền với những mối quan hệ bên ngoài xã hội.
Con người ta muốn thành công thì phải học khôn, ở trong gia đình và trường lớp dạy dỗ chưa đủ, cần phải học ở bên ngoài xã hội – trường đời. Cho nên tục ngữ ta có câu “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, và cổ nhân cũng nói “đọc xong một cuốn sách, cần phải đi ra bên ngoài mười dặm” đây cũng là ý nghĩa của câu “học phải đi đôi với hành”. Mà muốn biết khi đi ra bên ngoài lành dữ thế nào thì phải coi ở cung Thiên Di. Nếu như cát tinh phù tá tụ hội, quý nhân tinh xum họp, thì nhất định đi ra bên ngoài sẽ toàn gặp được hanh thông may mắn, được người nâng đỡ ủng hộ, dẫu có gặp nguy cũng có người cứu giúp thành an, những người được yếu tố này đặc biệt dễ thành công. Còn ngược lại, nếu như Kị ám hung sát tinh tụ tập mà chẳng có cát tinh thì đi ra bên ngoài thường vướng phải những thị phi khẩu thiệt, đụng chuyện đã thiếu người giúp đỡ lại còn họa vô đơn chí khiến cho lâm vào bầm dập trong các tai các nạn. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, những người có cung Di xấu không có nghĩa là họ không thể học khôn ở bên ngoài được và khó thành công cũng không có nghĩa là họ sẽ không thể thành công. Bởi vì chúng ta biết rằng, ở trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt của môi trường thì nó sẽ rèn luyện cho con người ta những trải nghiệm, rút ra được những bài học xương máu để mà khôn, sau mỗi lần vấp ngã thì ai dám đứng lên vượt qua được trở ngại thì nhất định sẽ thu được thành tựu. Chỉ có những người không dám vươn lên, không dám đối đầu với khó khăn mới bị sát hung tinh vùi dập cho không thể ngóc đầu lên được nữa mà thôi. Đôi khi người ta phải biết cám ơn các hung sát tinh, vì nó đem lại cho người ta những sự xung kích mạnh mẽ hơn và quyết liệt hơn.
Cung Thiên Di, khi xét đối với mốt sự kiện nhất định nào đó trong vận hạn, người ta vẫn thường lấy coi làm đối phương của đương số (Chủ ở Bản cung, Khách/đối phương ở xung cung), thí dụ như trong việc tỉ đấu cạnh tranh hoặc là ký kết hợp tác thì cũng đều lấy cung đối xung để mà xét xem cát hung như thế nào. Bởi vậy mà sách nói:
Đối phương cát vị chi ngưỡng diện Xuân phong
Đối phương hung vị chi đương đầu ác bổng.
(Cung đối xung mà có cát tinh tụ hội thì như là ngẩng mặt đón gió Xuân tươi mát,
Cung đối xung mà có hung sát tinh thì chẳng khác gì cây gậy hiểm ác chực chờ đập xuống đầu).
Vì vai trò rất quan trọng của vị trí đối với cung Mệnh mà hầu như tất cả các phép luận từ xưa tới nay trong bộ môn Tử Vi đều xét ngay đến cung Thiên Di sau khi xét Mệnh Thân, Phúc Đức:
Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,
phân đối cung chi thể dụng, định tam hợp chi nguyên lưu.
(Thứ nhất khán Phúc Đức, rồi ngay sau đó khảo cứu kỹ Thiên Di,
Phân ra Thể – Dụng với đối cung, xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp).
Đệ nhất biện tân chủ chi phân,
động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
(Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,
Động-Tĩnh tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!)
Tiên quan Phúc Đức, vi tinh thần phúc ấm sở tại.
Thứ khán Thiên Di, vi động tĩnh nội ngoại chi chủ.
Tài Bạch Quan Lộc, định tam hợp phù trì cát hung.
(Trước xem Phúc Đức an bài
Tinh thần tư tưởng, tổ tông ban vì.
Thứ đến xem ở Thiên Di
Tĩnh động, chủ khách, phân ly trong ngoài.
Tài Bạch, Quan Lộc cả hai
Một vòng tam hợp an bài cát hung).
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Thiên Di, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “XI – Thiên Di” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
8, Luận giải cung Nô Bộc
Cung Nô Bộc cho biết mối quan hệ của đương số đối với bạn bè, đồng nghiệp, những người trợ thủ giúp việc (chủ yếu là những người dưới quyền, nhưng đôi khi cũng ứng vào cấp trên – lúc này thường là ứng với các sao quý nhân).
Cổ nhân sắp đặt bài bố cung chức Nô Bộc rất khéo léo ở vị trí giữa và giáp với cung Thiên Di, cung Quan Lộc, là hàm ý nhấn mạnh đến mối quan hệ liên kết giữa tính chất sự kiện của các cung này với nhau. Cho nên Phú có câu:
Lộc cư Nô Bộc, túng hữu quan dã bôn trì,
(Lộc cư Nô thì tuy làm quan vẫn vất vả hoặc làm công việc có tính chất chạy đôn đáo ngược xuôi)
Điều này chủ yếu là do bố cục của tinh đẩu với các cung đó thôi, vì khi Lộc Tồn cư Nô Bộc thì Kình Đà xâm phạm vào Thiên Di vào Quan Lộc, đồng thời 2 sát tinh này cùng chiếu vào Mệnh.
Nói như vậy cũng không có nghĩa là cung Nô Bộc chỉ đề cập đến những đối tượng ở bên ngoài, ngược lại nó còn bao hàm đến các đối tượng ở trong nhà, như vợ, thiếp, quản gia, giúp việc,… Ngày xưa, người phụ nữ khi xưng hô một cách khiêm cung thường xưng mình là “Nô gia”, bên cạnh đó, Phá Quân là thần chủ quản cung Phu Thê cũng kiêm quản luôn cung Nô Bộc. Điều này giải thích tại sao có quan điểm cho rằng, khi xét đến người vợ thứ hai trở đi thì xét ở cung Nô Bộc, tuy nhiên đó cũng chỉ là một quan niệm bổ túc cách xem cho cặn kẽ hơn, chứ kỳ thực thì dù là người vợ thứ mấy thì cũng đều xem cát hung ở cung Phu Thê gốc và lưu Phu Thê theo các đại tiểu hạn là chính.
Xem cung Nô Bộc để biết những đối tượng có tương trợ giúp đỡ đắc lực cho đương số hay không, có kề vai sát cánh bền lâu chung thủy hay không, có oán thán trách móc hay phản trắc gây họa cho đương số hay không,…
Từ cung Nô Bộc, cũng phần nào cung cấp cho chúng ta thông tin về nghề nghiệp của đương số. Ví dụ như cung Nô Bộc của người làm giáo sư thường khá sáng sủa nhiều cát tinh ứng với học sinh sinh viên có học vấn. Cung Nô của một người mà có nhiều sát tinh thì cũng có thể người đó làm quản giáo của một trại giam, hay cũng có thể là làm bác sĩ, ứng với nô bộc là phạm nhân hay bệnh nhân của các vị ấy.
Vị trí của cung Nô Bộc, tốt nhất đừng nên ở vào vị trí lục hại với cung Mệnh, vì nó thường khiến cho đương số chịu nhiều thiệt thòi, phải nhường nhịn cho các đối tượng nô bộc, bạn bè đồng nghiệp.
Một cung Nô Bộc tốt thì nên có các cát tinh với các quý nhân tinh, nhưng nếu có sát tinh cũng đừng quá lo ngại, miễn sao sát hunh tinh ấy đừng có khắc hại với Chính Tinh hay cát tinh thủ Mệnh là được. Thí dụ như, cung Mệnh có Nhật hay Nguyệt thì cung Nô đừng nên có Kình Đà, cung Mệnh có Xương Khúc thì cung Nô đừng nên có Hỏa Linh Hóa Kị,… bởi vì như vậy thường sẽ khiến cho Nô Bộc có ảnh hưởng xấu đến Mệnh và Quan, Di của đương số.
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;
ác tinh ứng Mệnh cung, nô bộc hữu trợ.
(Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
ác tinh ứng vào Mệnh cung thì Nô Bộc có sự tương trợ).
Điều này đã từng nói, các cát tinh, các sao tôn quý mà đóng ở cung Nô thì thường cung Mệnh sẽ thường gặp phải ác tinh hoặc các sao hãm địa hoặc gặp phải sát tinh, như thế thì sẽ khiến cho đương số gặp nhiều gian lao vất vả. Tuy nhiên, bù lại thì cung Nô Bộc tốt sẽ có sự hỗ trợ, có sự giúp đỡ đắc lực từ bạn bè đồng nghiệp và nô bộc.
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Nô Bộc, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “X – Nô Bộc” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
———–
9, Luận giải cung Quan Lộc
Cung Quan Lộc cho biết mối quan hệ của đương số đối với sự thành bại trong công danh sự nghiệp, công việc có được thuận lợi hay không, mức độ thăng tiến đến vị trí cỡ nào, có uy quyền ổn định hay thăng trầm, có bị truất giáng chuyển đổi gì không, khả năng chuyên môn (tức trình độ, tay nghề) là cao hay thấp, có phù hợp với đương số hay không,…
Cung Quan Lộc bao gồm 2 phần Quan (sự nghiệp, công việc) và Lộc (tước lộc, bổng lộc đạt được từ công việc), cái chữ “Lộc” gắn liền với chữ Quan này có nguyên xuất phát thời Tây Hán, do Khoái Thông (thuộc hạ của Hàn Tín) nói với Hán Cao Tổ Lưu Bang rằng “Nhà Tần bị mất con hươu, thiên hạ cùng truy đuổi, ai tài cao thì sẽ bắt được”. Con Hươu gọi là Lộc, câu đó ám chỉ sự nghiệp tranh tài đoạt quyền lực, cho nên “Trục Lộc” (đuổi Hươu) sau này được dùng kèm với “Trảm Xà” (chém rắn, gắn liền với việc khởi sự của Lưu Bang) mà tạo ra thành ngữ “Trảm Xà trục Lộc”. Nói như thế để chúng ta biết được ý nghĩa của Quan Lộc, là nhấn mạnh về Quan vị Tước lộc,… cũng là nhằm hiểu chữ Lộc này mà suy ngẫm về câu phú “Định tam hợp chi nguyên lưu”, “Định tam hợp phù trì cát hung”. Đối với Tam hợp của Mệnh – Quan – Tài thì từ cung Mệnh là phát sinh khởi lưu, chuyển tới cung Quan Lộc là nơi phát triển thịnh vượng từ quan tước hưởng bổng lộc để quy về cung Tài Bạch vậy.
Xem cung Quan Lộc phải chú ý tới Mệnh Thân và cung Phúc, vì cát hung của những cung này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự nghiệp của đương số. Cung Mệnh thì liên quan gắn liền chặt chẽ đến cung Quan theo thế tam hợp chiếu, cung Thân thì biểu thị căn cơ và sức phấn đấu tự lực bản thân để vươn lên trong sự nghiệp, hai cung này thì rõ rồi. Vậy còn cung Phúc Đức ảnh hưởng như thế nào đến Quan Lộc của đương số mà cần phải xem kỹ?
Thưa, nguyên do là vì ngày xưa trong chế độ phong kiến thì Phúc – Ấm là hai yếu tố gắn liền với nhau. Cha ông mà là hoàng thân quốc thích, hay là người có công lao với vua với triều đình thì nghiễm nhiên vợ con cháu chắt được hưởng ấm phong. Tùy theo từng thời từng triều đại, mức độ thân thích và công lao mà mức độ ấm phong là nhiều hay ít. Có khi được phong tước lộc, có khi được phong quan, nhưng thường là được phong hưởng lợi ích từ việc quản lý thuế má hoa lợi đối với một số không ít các hộ dân quanh khu vực người được phong ấm sinh sống. Bởi vậy, cung Phúc Đức mà bị sát tinh xâm phạm, bị phá trong khi cung Quan Lộc đẹp đẽ thì sự nghiệp quan tước cũng không thể được coi là thành công to lớn đâu nhé.
Xem cung Quan Lộc phải chú ý đến các sao Thái Dương, Thiên Tướng, vì sao Thái Dương hóa khí là quyền quý là thần chủ quản cung Quan Lộc, sao Thiên Tướng hóa khí là ấn cũng là thần chủ quản cung Quan Lộc. Bên cạnh đó cũng cần chú ý tới Tử Vi, Thiên Phủ vì chúng là quyền và lệnh tinh quản về quyền hành và tước lộc. Cát hung của các sao trên đều có ảnh hưởng đến cát hung của cung Quan Lộc.
Luận về cung Quan Lộc thì Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Quan Lộc ngộ Tử Phủ, phú nhi thả quý;
(Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý)
Tất nhiên rồi, Tử Phủ là các sao tôn quý vừa chủ uy quyền vừa chủ tước lộc, khi đắc miếu lại hội cát tinh phù tá đóng ở cung Quan Lộc thì sẽ khiến cho đương số vừa được giàu có, vừa được sang quý. Còn nếu như Tử Phủ mà lại gặp phải Tuần Triệt, Không Kiếp, sát hung tinh tụ tập thì không thể đoán là quý được, có thể vẫn được phú nhưng rồi cũng dễ suy tán hao hụt.
Cung Quan Lộc rất ưa có Hóa Quyền rồi sau đó là Hóa Khoa, Hóa Lộc, tụ hội với cát tinh, dù là do bất kỳ sao nào hóa ra đi nữa thì khiến cho cung Quan Lộc có khí lực mạnh mẽ để thăng tiến thành đạt. Tuy nhiên, Hóa Quyền mà lại gặp thêm các sát hung tinh thì cũng khiến cho sự nghiệp của đương số thăng trầm vô độ, bạo phát cũng bạo phá. Trường hợp này cần phải có các sao chế hóa hung tinh thì mới tốt, thí dụ Hỏa Linh cần gặp Tham Lang Tử Phủ để được chế, Liêm Trinh cũng hung cần gặp Thiên Tướng để chế,…
Xét về nghề nghiệp, xã hội thời xưa có ít ngành nghề và cũng không phân chia chi tiết như xã hội hiện đại, do đó khi suy đoán về nghề nghiệp của đương số thì cần phải phối hợp tính chất của các sao cho tinh tế, căn cứ vào thời thế hình thái xã hội mà đương số sinh sống để phân tích, căn cứ vào tính tình của đương số, kết hợp với các cung Mệnh Thân Nô Bộc mà suy đoán thì mới mong đưa ra những nhận định sát thực được.
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Quan Lộc, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “IX – Quan Lộc” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
10, Luận Giải cung Điền Trạch
Chức năng của cung Điền Trạch cho biết mối quan hệ của đương số đối với tài sản vật chất, nhà cửa đấtđai, ruộng đồng vườn tược,… của mình. Chữ “Điền” có nghĩa là ruộng, vườn, còn chữ “Trạch” có nghĩa là nhà, là nơi ở nói chung. Do đó, cung Điền Trạch thì ngoài phần phản ánh mối quan hệ về đất đai, ruộng vườn mà đương số có sở hữu thì còn phản ánh cả mối quan hệ về nơi ở, nơi cư trú mà đương số không sở hữu, ví dụ như nhà đi thuê, chỗ tạm trú trong một thời hạn nào đó.
Ruộng vườn là môi trường để con người ta lao động sản xuất canh tác, trồng trọt nhằm tạo ra của cải vật chất, cũng là để có lương thực để phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Bởi thế mà người xưa nói “tấc đất tấc vàng”. Ngày nay, ý nghĩa của câu này còn thực tiễn hơn nữa đối với đất ruộng vườn mà còn với cả đất nơi cư trú, do giá trị của chúng rất lớn nên được coi là một loại hàng hóa đặc biệt, loại tài sản mà được xếp vào nhóm bất động sản. Vì vậy, trong môn Tử Vi Đẩu Số, khi xét mức độ giàu có (phú) của đương số thì ngoài cung Mệnh Thân, Tài Bạch, thì nhất định phải chú ý đến các cách cục ở cung Điền Trạch.
Xem về vấn đề có sở hữu được nhiều hay ít đất đai, bất động sản thì khi xét cung Điền Trạch cần phải chú ý đến cung Mệnh Thân và cung Phúc Đức của đương số, bởi vì cung Mệnh Thân cho biết khả năng tạo dựng cơ nghiệp còn cung Phúc Đức thì cho biết đương số có phúc phần được hưởng thừa kế đất đai từ cha ông hay không, được hưởng thì nhiều hay ít và dòng dõi xuất thân của đương số là cao quý hay nghèo hèn.
Xem về vấn đề cát hung phần dương trạch để biết nơi cư trú của đương số có phù hợp để đương số và gia đình có sức khỏe tốt hay không (vì an cư thì mới lạc nghiệp mà) thì khi xét cung Điền Trạch gốc phải xét đồng thời đến cung Lưu Điền Trạch và Thiên Di của các hạn (chủ yếu là theo đại hạn, cung Lưu Điền Trạch được gọi là cung Điền Trạch hậu thiên). Nếu như chúng đều có cách cục tốt, có các cát tinh tụ hội thì đương số tất sẽ được ở trên mảnh đất lành, vận thế tốt đẹp làm bàn đạp tạo dựng cơ nghiệp vững chắc ổn định, người trong nhà cũng luôn được khỏe mạnh vui vẻ, buôn bán bất động sản cũng được suôn sẻ đem về nhiều lợi nhuận. Còn nếu như các hung sát ám tinh xâm phạm thì nhà cửa không ổn định, trong nhà dễ phát sinh ốm đau, tang tóc, lục đục cãi cọ, tranh chấp,… Như thế thì khó lòng mà chuyên tâm công việc tạo dựng sự nghiệp được. Hơn nữa, những việc liên quan đến buôn bán bất động sản cũng thường sẽ bị ế ẩm thua lỗ, bị lường gạt.
Xem cung Điền Trạch, cần chú ý đến sao Thái Âm (chính) và Thiên Phủ, Vũ Khúc (phụ) vì hóa khí là tài phú, là thần chủ quản cung Điền Trạch, độ miếu hãm và cát hung đi kèm của các sao ấy cũng ảnh hưởng trực tiếp đến cát hung của cung Điền Trạch.
Cung Điền Trạch cũng hàm chứa biểu hiện về tài sản của cải, cho nên nó rất ưa có các tài lộc tinh, các cát tinh đến đóng ở trong cung, đồng thời rất ngại các sao Không Vong hao phá và các sát tinh.
Khi luận về cung Điền Trạch thì Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Điền Trạch ngộ Phá Quân, tiên phá hậu thành.
(Điền Trạch gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được).
Đây chính là tiên sinh lấy tính chất hao phá của sao Phá Quân để mà làm ví dụ điển hình, tất nhiên phải đừng là trường hợp Phá Quân hãm địa tụ hội bầy sát tinh vì như thế sẽ khiến cho cả đời dễ long đong với cảnh màn trời chiếu đất chứ khó mà xây dựng được sản nghiệp. Chúng ta hãy nhớ rằng, tính chất của Phá Quân là luôn có xu hướng phá bỏ cái cũ để tạo lập cái mới, nhưng để thành công trong việc tạo dựng cái mới thì phải có cát tinh phù tá thì mới được, còn nếu như cát tinh không tụ lại chỉ gặp sát hung tinh thì công cuộc xây dựng cái mới sau khi đã phá bỏ cái cũ chỉ là viễn cảnh.
Cung Điền Trạch trong ý nghĩa là tài sản của cải, nhất thiết cần phải đề cập đến một vấn đề là bị Không Vong án ngữ, lý thường thì vật chất rất ái ngại Không Vong, các cụ vẫn thường nói:
“Tuần Triệt gia lâm, tổ nghiệp nan chiêu” hoặc “Tuần Triệt gia lâm, nhất thời hao tán”
Tức là, khi cung Điền Trạch bị Tuần Triệt Không Vong án ngữ thì có thể sẽ có một thời gian bị hao tán, không được thừa hưởng thừa kế do cha ông để lại, hoặc phải bán bớt nhà cửa ruộng vườn đi. Sau đó, đi xa lập nghiệp hoặc đến hậu vận thì sẽ lại gây dựng thành công về nhà cửa ruộng vườn.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, cung Điền Trạch mà có cách cục xấu, đồng thời lại có Không Vong án ngữ, thì có thể làm giảm tính xấu, đỡ bị hao tán, nhưng ảnh hưởng do Không Vong vẫn làm cho tài sản không ổn định ở tiền vận, và chỗ ở cũng thường có một số vấn đề như nhà nằm nơi trống, vắng vẻ, trong ngõ, căn nhà thường thiếu vuông vắn, hay bị thấm ngấm dột (kể cả ở nhà đẹp cũng bị), đường nước hay hỏng,…
Một điểm cần lưu ý nữa đối với việc giữ gìn và thừa hưởng tài sản đất đai ruộng vườn, là khi Hóa Kị và Cô Quả đóng ở ngay trong cung Điền Trạch thì sẽ giữ được tài sản, tích lũy được, được thừa hưởng thừa kế,… vì các sao này đều chủ sự thâu tàng cất giấu. Dĩ nhiên chúng đừng có hội với sát tinh và phải ở ngay trong bản cung chứ đừng ở vị trí xung hay chiếu.
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Điền Trạch, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “VIII – Điền Trạch” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
———–
11, Luận Giải cung Phúc Đức
Cung Phúc Đức là cung mang khái niệm trừu tượng nhất, cũng là một trong những cung quan trọng bậc nhất trên lá số, vì ảnh hưởng của Phúc Đức có thể chi phối tới hầu hết các cung chức còn lại như chúng ta đã biết trong quá trình luận đoán các cung chức vừa qua.
Vai trò quan trọng của cung Phúc Đức khi luận đoán số Tử Vi cũng được cổ nhân đúc kết trong lời các bài phú như:
Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,
(Đầu tiên xem cung Phúc Đức, sau đó xét kỹ cung Thiên Di)
Tiên quan Phúc Đức, vi tinh thần phúc ấm sở tại
(Đầu tiên xem cung Phúc Đức, đó là chỗ sở tại của tinh thần tư Phúc Ấm từ tổ tông ban cho).
Phú, Thọ, Quý, Vinh, Bần, Yểu, Ai, Khổ do ư Phúc trạch cát hung.
(Giàu nghèo, thọ yểu, sang hèn, vinh nhục, đều là do cát hung ở cung Phúc cả).
Nếu phân chia cung Phúc Đức theo hai lĩnh vực Hữu hình và Vô hình, thì ta có thể nói rằng:
Phần Hữu hình bao gồm dòng dõi họ tộc, xuất thân của đương số thuộc tầng lớp nào trong xã hội, sự kiện một số người hay cả họ tộc thịnh suy ra sao đoàn tụ hay ly tán, hình thế ngôi mộ của tổ tông mà ảnh hưởng trực tiếp đến đương số, tài sản của tổ tông truyền thừa cho đương số,…
Phần Vô Hình bao gồm Âm đức của tổ tông truyền thừa cho đương số, Phúc đức của tự bản thân đương số được hưởng do chính mình làm việc thiện mà nên, bản năng con người (phần tiềm ẩn về tinh thần tư tưởng hành xử, nó quyết định sự bộc lộ ra bên ngoài của tính cách ở Mệnh Thân),…
Trong phần luận về Âm Chất của sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có viết:
Âm đức duyên thọ ngầm định sinh mọi phúc phần, dẫu cho gặp “đảo hạn” (tạm hiểu là hạn xấu, hạn sụp đổ, thất bại… xin xem thêm câu “Lộc đảo, Mã đảo…”) vẫn không gặp tổn thương hay bị hại. Giả như, có người đại tiểu hạn và thái tuế đến chỗ hung hãm địa, nhưng có duyên thọ vượt quá số tuổi ở hạn ấy thì không thể chết được, đó chính là “nhân tằng hành âm đằng” (tằng tổ – người cụ đã khuất – làm âm đức bốc lên, tạo phúc cho đương số), ngày thường làm việc cứu tế cho người khác, tu thân tích đức, để làm thiện giáng phúc, nên tuy gặp hung nhưng không bại được vậy. Giống như Tống Giao bện cái cầu cói để cứu độ đàn kiến vậy. Lại như Gia Cát Lượng hỏa thiêu đạo quân giáp mây, ấy là hại người độc ác mà giảm thọ 10 năm vậy.
Được hưởng những điều tốt lành cát lợi thì cũng được gọi là Phúc, mà gặp phải những điều xui xẻo hung hiểm thì gọi là Họa. Cho nên có thể dùng cặp Họa – Phúc để mà nói đến hoặc thay thế cho cặp Cát – Hung.
Cung Phúc Đức mà tốt có thể giải trừ tai họa, cho nên sách nói:
Âm chất diên niên tăng bách phúc, chí vu hãm địa bất tao thương.
(Âm đức của tổ tông mà tốt đẹp là có thể khiến cho phúc tăng trăm lần, dẫu có đến chỗ hiểm địa cũng không bị tổn thương).
Đó chính là lý do mà cung Phúc Đức có thể quyết định đến tuổi thọ của đương số. Xem cung Phúc Đức kết hợp cùng Mệnh Thân thì có thể đoán định được đương số thọ hay yểu.
Xem cung Phúc Đức cần phải lưu ý đến các sao Thiên Đồng vì nó hóa khí là Phúc, làm chủ của cung Phúc Đức, và đồng thời cũng cần lưu ý đến các sao Thiên Lương (hóa khí là Ấm), Tử Vi, Thiên Phủ, vì chúng cũng đều chủ ban phúc, may mắn, kéo dài tuổi thọ,… cát hung của các sao này cũng có ảnh hưởng đến tình hình cát hung chung của cung Phúc Đức.
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh khi luận cung Phúc Đức có nói:
Phúc Đức ngộ Không vong Kiếp, bôn tẩu vô phương;
(Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định)
Ấy là lấy tính chất của Không Vong và hung sát tinh khiến cho Âm đức của tổ tông ở Phúc Đức của đương số bị hao tán, thành ra họ hàng cũng chẳng được tề tựu, bản thân đương số cũng ly hương bôn tẩu,… Dĩ nhiên đã lang thang vô định thì tuổi trẻ thường là nghèo hèn, cho nên sách cũng nói:
Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Tài Quan chi vị,
Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.
(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Tài Bạch, Quan Lộc,
Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).
Nói chung cung Phúc Đức rất ưa có các sao Quý Nhân, Khoa Quyền Lộc, Xương Khúc,… có các sao chủ quan tước như Thái Dương, Thiên Tướng đắc miếu thì cũng rất tốt, bởi vì:
Quan tinh cư vu Phúc địa cận quý vinh tài,
Phúc tinh cư vu Quan cung khước thành vô dụng.
(Các sao chủ quan lộc quyền chức mà ở cung Phúc thì gần người quyền quý mà được giàu có,
Thế nhưng các sao chủ phúc mà ở vào cung Quan thì lại chả có tác dụng gì cả).
Cung Phúc Đức thường e ngại các sao Không Vong (trừ khi vô chính diệu), Hao Phá, sát ám hung tinh,…
Về vấn đề hình thế của ngôi mộ tổ tông mà đương số nhận ảnh hưởng trực tiếp, tức là luận đoán về Âm Phần, chúng ta cần phải lưu ý rằng trong Tử Vi Đẩu Số có một yếu tố quan trọng là tính thời đại, ngày nay phần lớn mồ mả đều được quy tập quần tụ ở các nghĩa trang cho nên về hình thế phong thủy quanh ngôi mộ (táng nơi đất thấp hay đất cao, minh đường tiền án, thanh long bạch hổ,…) hầu như không còn là những thông tin điển hình như đối với xã hội thời xưa.Tuy nhiên, mọi người vẫn cần phải chú tâm để có thể nắm được phương pháp luận đoán đối với các lá số của người thời xưa.
Ảnh hưởng của các sao cụ thể và luận đoán Âm Phần đối với cung Phúc Đức, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “VII – Phúc Đức” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
12, Luận Giải cung Phụ Mẫu
Chức năng của cung Phụ Mẫu cho biết mối quan hệ của đương số đối với cha mẹ của mình, tình cảm có hòa hợp tốt đẹp hay không, bối cảnh của gia đình đương số như thế nào, địa vị thành tựu của cha mẹ ra sao,… từ đó biết được xuất thân của đương số ở giai tầng nào trong xã hội, sự trợ giúp của cha mẹ đối với đương số, gián tiếp ước lượng suy đoán được thọ yểu của cha mẹ đương số.
Cung Phụ Mẫu còn được gọi là Tướng Mạo cung, điều này vốn là sự kế thừa của môn Tử Vi Đẩu số từ các môn tiền thân của nó là Thất Chính Tứ Dư và Thập Bát Phi Tinh (còn được biết đến dưới cái tên Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số). Ngày nay, trong các thư tịch của môn Tử Vi Đẩu Số chúng ta vẫn thường hay bắt gặp bằng chứng là những câu như:
Tướng mạo phùng hung tất đới phá tướng,
Tật ách phùng Kị định hữu uông doanh.
(Tướng Mạo – tức Phụ Mẫu cung – gặp hung sát tinh thì kiểu gì cũng có phá tướng,
Tật Ách cung mà gặp Hóa Kị thì nhất định có bệnh hoặc tật như chân khuềnh, lưng gù).
Tướng mạo chi trung phùng sát diệu,
Cánh gia tam hợp hựu phùng Hình,
Tật ách Kình Dương phùng Hao Sứ,
Chiết thương chi thể bất hòa bình.
(Sát diệu đóng vào Phụ Mẫu cung
Lại thêm tam hợp Thiên Hình phùng
Tật Ách Kình Dương cùng Hao Sứ
Thân thể tổn thương có phá tướng.)
Cự ám đồng viên vu Thân Mệnh Tật Ách doanh sấu kỳ khu,
Hung tinh giao hội vu Tướng Mạo Thiên Di thương hình kỳ diện.
(Cự với Diêu Đà Kị mà cùng ở Thân Mệnh hay Tật Ách cung thì thân hình gầy và xấu,
Hung tinh hội chiếu Tướng Mạo (Phụ Mẫu) và Thiên Di cung, thì trên người và mặt có thương tật).
Theo quan điểm Lý Số của người Á Đông, đại diện tiêu biểu là Chu Hi (hiệu Hối Am) thì từ khi Âm Dương giao hợp đến lúc con người và vạn vật sinh ra, thông qua phụ mẫu mà được bẩm thụ cái Khí của trời đất mà thành Hình hài, bẩm thụ cái Lý của Khí để mà thành Tính. Còn theo lý luận mang tính duy vật hiện đại thì Hình hài tướng mạo là có sự di truyền từ cha mẹ, Tính cách cũng một phần là do một số gen quy định, phần còn lại là do môi trường sống sau này quy định, nhân cách bắt đầu định hình từ lúc khoảng 3 tuổi trở đi, thời gian này mỗi cá nhân đều ở với cha mẹ và chịu ảnh hưởng đặc biệt mạnh mẽ từ sinh hoạt và sự giáo dục của cha mẹ.
Cho nên, trong môn Tử Vi Đẩu Số, việc sắp đặt cung Phụ Mẫu thay thế cho tên gọi Tướng Mạo cung, kề ngay bên cạnh Mệnh cung, đối xung với cung Tật Ách, thiết nghĩ đó cũng là một hiệu chỉnh tổng quát với một hệ thống lý luận chặt chẽ vô cùng hữu lý.
Theo đó, xem cung Phụ Mẫu có thể suy đoán bổ sung cho cách các cục ở Mệnh Thân về tính cách, tướng mạo của đương số, tất nhiên vẫn cần lưu ý đến cung Tật Ách.
Xem về các mối quan hệ của đương số đối với cha mẹ mình thông qua cung Phụ Mẫu, cần phải lưu ý đến cung Phúc Đức, vì cát hung của cung Phúc Đức có ảnh hưởng mạnh đến sự hòa hợp hay xung khắc của đương số với cha mẹ mình. Nếu cung Phụ Mẫu không đẹp nhưng cung Phúc Đức lại tốt đẹp thì cũng có thể giảm nhẹ đi tính chất xung khắc của đương số với cha mẹ.
Xem về cha mẹ đương số thông qua cung Phụ Mẫu, cần đặc biệt lưu ý đến hai sao Nhật Nguyệt, vì chúng là biểu tượng Âm Dương của cha mẹ. Tùy vào độ sáng tối và đi kèm sát hung tinh thế nào mà luận đoán xem đương số hợp hay khắc với cha hay với mẹ. Khi xét sự sáng tối của Nhật Nguyệt thì cần lưu ý đến thời điểm ra đời của đương số là ban ngày hay ban đêm (từ cuối giờ Dần đến đầu giờ Thân là thuộc về Ban Ngày, từ cuối giờ Thân đến đầu giờ Dần là thuộc về Ban Đêm), thời gian là khoảng nào trong tháng (Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền).
Ngoài ra còn cần lưu ý đến sao Thiên Lương, vì nó hóa khí là Ấm, làm chủ cung Phụ Mẫu.
Cát hung của các sao này đều ảnh hưởng đến sự hòa hợp hay hình khắc của mối quan hệ giữa đương số với cha mẹ mình, ảnh hưởng đến sức khỏe tuổi thọ của cha mẹ đương số.
Khi luận về cung Phụ Mẫu thì Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh có nói:
Tướng Mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.
(Tướng Mạo, tức Phụ Mẫu cung, mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được).
Tùy vào mức độ tụ tập ít hay nhiều, của các sao Hình Sát mà luận đoán mức độ hình khắc của đương số với cha mẹ mình, nhẹ thì có thể là khắc khẩu, không hợp tính tình, nặng thì sinh ly hoặc tử biệt.
Ảnh hưởng của các sao cụ thể đối với cung Phụ Mẫu, đề nghị mọi người đọc kỹ mục “VI – Phụ Mẫu” sách TVĐS Tân Biên (VĐTTL).
(Sưu tầm từ facebook Quách Ngọc Bội)